Trang chủ GIÁO LÝ HÔN NHÂN Giáo Lý Hôn Nhân - Ủy Ban Giáo Lý HDGMVN
Giáo Lý Hôn Nhân - Ủy Ban Giáo Lý HDGMVNGIÁO LÝ HÔN NHÂN Tác giả: UB Giáo Lý Đức Tin, HĐGMVN Sách Sáng thế kể lại: Sau khi đã dựng nên Ađam, Thiên Chúa phán: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó.” Khi thấy Evà, Ađam đã sung sướng kêu lên: “Này là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!” (x. St 2,18-23). Hôn nhân trước hết là một ơn gọi. Qua việc phối hợp trong tình yêu, hai vợ chồng được mời gọi trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa (x.St 1,26-28), một Thiên Chúa yêu thương và luôn trung tín (x. Hs 2,21). Tình yêu và sự trung tín của Thiên Chúa được thể hiện trọn vẹn nơi Đức Kitô, Con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu độ nhân loại. Chúa Giêsu chỉ sống trên trần gian ba mươi ba năm, nhưng đã dành ba mươi năm sống trong gia đình Nadarét. Điều đó cho thấy hôn nhân và gia đình có một tầm mức quan trọng trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Nơi Chúa Giêsu, các đôi vợ chồng nhận ra Thiên Chúa là Đấng đã khởi xướng, cũng như luôn đồng hành và làm cho hôn nhân và gia đình trở thành con đường hạnh phúc, dẫn con người đến sự hiệp thông với nhau và hiệp thông với Thiên Chúa tình yêu. Bài 1. Ơn gọi hôn nhân trong chương trình của Thiên Chúa Từ ban đầu Tạo Hoá đã dựng nên con người có nam có nữ Có thể nói, hôn nhân và gia đình là một trong những thể chế cổ xưa nhất của loài người. Hôn nhân đã được Kinh Thánh đề cập đến ngay từ những trang đầu[1], và rồi hình ảnh hôn nhân lại được Kinh Thánh nhắc đến nơi những trang cuối[2]. Điều đó cho thấy, hôn nhân không phải chỉ là một định chế thuần tuý của con người, mà trước hết còn nằm trong chương trình của Thiên Chúa, khi Ngài dựng nên con người có nam có nữ, và mời gọi họ: “Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều, đầy mặt đất, và thống trị nó” (St 1,28). 1. Hôn nhân là gì? Hôn nhân là một giao ước ký kết giữa một người nam và một người nữ, với ý thức tự do và trách nhiệm, để sống yêu thương và giúp đỡ nhau trong tình nghĩa vợ chồng; để sinh sản và giáo dục con cái trong nhiệm vụ làm cha làm mẹ[3]. 2. Nguồn gốc của hôn nhân Nguồn gốc của hôn nhân chính là Thiên Chúa. Sách Sáng thế kể lại rằng ngày thứ sáu, sau khi đã tạo dựng nên trời đất, cây cối và muôn loài muôn vật,Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt đất”. Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh mình. Thiên Chúa tạo thành con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Ngài tạo thành họ có nam có nữ. Thiên Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: “Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều, đầy mặt đất, và thống trị nó, hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển trên mặt đất” (St 1,26-28). Ngoài ra, sách Sáng thế còn nói một cách cụ thể hơn về việc kết hiệp vợ chồng: “Thiên Chúa lấy bùn đất nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở thành một vật sống. Thiên Chúa phán: “Đàn ông ở một mình không tốt, Ta hãy tạo dựng cho nó một nội trợ giống như nó”. Vậy Thiên Chúa khiến cho Ađam ngủ say, và khi ông đang ngủ, Ngài lấy một xương sườn của ông, và đắp thịt lại. Thiên Chúa làm cho chiếc xương sườn đã lấy từ Ađam trở thành người đàn bà, rồi dẫn đến Ađam. Ađam liền nói: “Bây giờ xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là người nữ, vì bởi người nam mà ra”. Vì thế, người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể. (St 2,7.18.21-24) Cả hai câu chuyện trên đều cho thấy hôn nhân đã xuất hiện ngay từ khởi đầu công trình sáng tạo và do ý muốn của Ngài. Khi tạo dựng, Thiên Chúa đã không dựng nên con người cô độc, hoặc chỉ là nam, hoặc chỉ là nữ, nhưng đã dựng nên con người có nam, có nữ và đã tác hợp họ nên vợ chồng, thành “một xương một thịt”. Nguồn gốc của hôn nhân chính là Thiên Chúa. Ngài là Đấng tác tạo hôn nhân và đã khắc ghi ơn gọi hôn nhân vào trong bản tính của con người khi tạo dựng nên họï có nam có nữ[4]. 3. Tình yêu là yếu tố căn bản của hôn nhân Thiên Chúa là Tình Yêu[5], Đấng duy nhất nhưng không đơn độc. Nơi bản thân, Ngài đang sống mầu nhiệm hiệp thông và yêu thương giữa Ba Ngôi Vị: Cha, Con và Thánh Thần. Vì yêu thương mà dựng nên con người giống hình ảnh mình, Thiên Chúa cũng mời gọi họ sống yêu thương và hiệp thông. Khi sống yêu thương, con người thể hiện đúng với bản chất của mình là hình ảnh Thiên Chúa, được dựng nên để sống yêu thương và hiệp thông với nhau. Tình yêu là ơn gọi nền tảng và bẩm sinh của con người[6]. Tình yêu cũng là yếu tố căn bản của hôn nhân. Sự trao tặng thân xác giữa hai vợ chồng chỉ có ý nghĩa khi thể hiện sự tự hiến chính mình vì tình yêu. Tình yêu là nền móng xây dựng những mối tương quan gia đình. Đối với con cái, tình yêu của cha mẹ trở thành dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa. Sứ mạng của đời sống gia đình là bảo toàn, biểu lộ và truyền đạt tình yêu. Hôn nhân và gia đình được thiết lập là do tình yêu, được sinh động cũng là do tình yêu, sức mạnh và mục đích cuối cùng lại chính là tình yêu[7]. 4. Mục đích của hôn nhân Tự bản chất, hôn nhân hướng đến hai mục đích: Lợi ích của đôi vợ chồng và lưu truyền nòi giống (sinh sản và giáo dục con cái)[8]. Hai mục đích này luôn đi đôi với nhau, mặc dù có những lúc mục đích này được nhấn mạnh hơn mục đích kia. 4.1. Trọn đời yêu thương và bổ túc cho nhau Nhờ khế ước hôn nhân, người nam và người nữ “không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt” (Mt 19, 6; x. St 2, 24), và được mời gọi mỗi ngày một trở nên gắn bó với nhau hơn qua việc nỗ lực sống cam kết trao hiến trọn vẹn cho nhau. Sự hiệp thông vợ chồng ăn rễ sâu từ sự thu hút tự nhiên về giới tính, cũng như từ sự bổ túc lẫn nhau giữa nam và nữ, được nuôi dưỡng nhờ những nỗ lực của đôi bạn muốn chia sẻ cho nhau trọn cả bản thân trong suốt cuộc đời. 4.2. Sinh sản và giáo dục con cái Tự bản chất, hôn nhân hướng đến việc sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh hoàn thành hôn nhân. Con cái là ân huệ cao quý nhất của hôn nhân và là sự đóng góp lớn lao kiến tạo hạnh phúc của cha mẹ. Tình yêu vợ chồng còn phong phú nhờ những hoa quả của đời sống luân lý, tinh thần và siêu nhiên được cha mẹ truyền lại cho con cái qua việc giáo dục. Theo nghĩa này, mục tiêu nền tảng của hôn nhân và gia đình là phục vụ cho sự sống và hạnh phúc[9]. 5. Hạnh phúc đời hôn nhân Hôn nhân bao giờ cũng đi đôi với ước vọng trăm năm hạnh phúc. Đối với người Công giáo, hạnh phúc thật là được sống trong tình thân mật với Thiên Chúa Tạo Hoá là Cha yêu thương chúng ta. Có Thiên Chúa, dù thiếu mọi sự, cũng vẫn hạnh phúc. Còn vắng bóng Ngài, dù có mọi sự, cũng chỉ là bất hạnh. Đối với người Công giáo, khi đôi bạn thực hiện hôn nhân và gia đình theo ý định của Thiên Chúa, thì hôn nhân chính là một con đường dẫn đến Thiên Chúa, cũng như dẫn đến hạnh phúc. Mục đích của Thiên Chúa khi tạo dựng, đó là làm cho con người được yêu thương và hiệp nhất với Ngài trong hạnh phúc đời đời. Đồng thời, mọi sự Thiên Chúa ban cho ở đời này đều nhằm giúp con người đạt tới mục đích cuối cùng ấy. Khi đã nhận biết điều đó, trong mọi sự, ta luôn dành ưu tiên cho Thiên Chúa để được hiệp nhất với Ngài. Hễ điều gì giúp ta đến gần Ngài, thì ta đón nhận, bằng không ta phải dứt bỏ ngay[10]. 4 GHI NHỚ : 1. H. Hôn nhân là gì? T. Hôn nhân là giao ước ký kết giữa một người nam và một người nữ, với đầy đủ tự do ưng thuận và ý thức trách nhiệm, để trở thành vợ chồng. 2. H. Ai đã lập nên hôn nhân? T. Chính Thiên Chúa đã lập nên hôn nhân khi dựng nên loài người có nam có nữ, và mời gọi họ sống yêu thương. 3. H. Yếu tố căn bản của hôn nhân là gì? T. Yếu tố căn bản của hôn nhân chính là tình yêu vì Hôn nhân được thiết lập do tình yêu và mục đích cuối cùng của Hôn nhân cũng chính là tình yêu. 4. H. Hôn nhân có những mục đích nào? T. Hôn nhân có hai mục đích này: 5 GỢI Ý SUY NGHĨ : 1. Tình yêu có gì khác với sự thu hút giữa nam và nữ? 6 CẦU NGUYỆN : Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì đã cho chúng con sinh ra làm người nam, người nữ, mang hình ảnh của Chúa. Chúa còn ban tặng cho từng người chúng con một trái tim muốn yêu và khao khát được yêu để chúng con có thể yêu Chúa và yêu nhau. Xin dạy chúng con biết yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng con để chúng con ngày càng trở nên giống hình ảnh Chúa là Tình yêu. Amen. [1] x. St 1,27-28; 2,18-25 “Bởi thế, người ta lìa bỏ cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình Khi một người nam và một người nữ kết hôn, họ trở thành vợ chồng theo luật tự nhiên. Hôn nhân của họ là một khế ước, có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Đối với người Kitô hữu, hôn nhân không chỉ là một khế ước, mà còn là một bí tích. Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Hôn nhân là bí tích tình yêu... Khi vợ chồng nên một trong hôn nhân, cả hai không còn là hình ảnh dưới trần nữa, mà là hình ảnh của Chúa trên trời.” 1. Hôn nhân Công giáo là một bí tích Từ xưa đến nay, hầu như nền văn hoá nào cũng coi hôn nhân là việc linh thiêng. Vì thế, trước khi về chung sống với nhau, cô dâu chú rể thường xin trời đất, thần linh hoặc ông bà tổ tiên chứng giám và phù hộ cho cuộc hôn nhân của mình qua một nghi lễ công khai và long trọng. Trong Cựu Ước, giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài thường được ví như một cuộc hôn nhân thuỷ chung, duy nhất[1]. Sang Tân Ước, hôn nhân được coi là hình ảnh sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội Thánh[2]. Đức Kitô được ví như chàng rể của giao ước mới[3]. Còn Hội Thánh được ví như cô dâu, đã được Đức Kitô yêu thương đến hy sinh mạng sống[4]. “Ngay khi bắt đầu đời sống công khai, Chúa Giêsu đã có mặt trong một tiệc cưới tại Cana và đã làm dấu lạ đầu tiên, biến nước thành rượu để giúp hai họ nối tiếp cuộc vui (Ga 2,1-11). Sự hiện diện này được Hội Thánh hiểu như là một chứng thực của Đức Kitô đối với giá trị hôn nhân, đồng thời cũng tiên báo sự hiện diện thường xuyên của Ngài trong đời sống hôn nhân[5]”. “Trong khi rao giảng, Chúa Giêsu dạy rõ ràng về ý nghĩa nguyên thủy của việc phối hợp giữa người nam và người nữ như thuở ban đầu Đấng Tạo Hóa đã muốn. Sự phối hợp này là bất khả phân ly. Việc Môsê cho phép bỏ vợ là một nhượng bộ trước lòng chai dạ đá của người nam (x. Mt 19, 3-8)[6]”. “Khi tái lập trật tự ban đầu của công trình sáng tạo đã bị tội lỗi làm xáo trộn, Chúa Giêsu đã ban sức mạnh và ân sủng để các đôi vợ chồng sống đời hôn nhân trong chiều kích mới của Nước Thiên Chúa. Ân sủng của hôn nhân Kitô giáo là hoa quả của Thánh Giá Đức Kitô, nguồn mạch mọi đời sống Kitô hữu[7]”. “Thánh Phaolô cho thấy điều đó khi nói: “Người làm chồng hãy yêu thương vợ như Đức Kitô đã yêu thương Hội Thánh, và hiến mình vì Hội Thánh để thánh hóa Hội Thánh” (Ep 5, 25-26). Ngài còn nói thêm: “Bởi thế, người ta lìa bỏ cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình và cả hai nên một thân xác. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh.” (Ep 5, 31-32)[8]. “Toàn bộ đời sống Kitô giáo mang dấu ấn của tình yêu “hôn nhân” giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Bí tích Thánh tẩy, cửa ngõ dẫn vào Dân Thiên Chúa, cũng đã là một mầu nhiệm “hôn nhân”: có thể nói đó là nghi thức thanh tẩy (x. Ep 5, 26-27) trước khi bước vào tiệc cưới là bí tích Thánh Thể. Hôn nhân Kitô giáo trở thành dấu chỉ giao ước giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Hôn nhân giữa hai người đã được rửa tội là một bí tích thực sự của Giao ước Mới, vì nó biểu thị giao ước giữa Đức Kitô và Hội Thánh, và thông ban ân sủng cho họ[9]”. Như vậy, ta có thể nói, Thiên Chúa đã thiết lập khế ước hôn nhân ngay trong vườn địa đàng, giữa người nam và người nữ đầu tiên. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã nâng hôn ước đó lên hàng Bí tích. Qua bí tích hôn phối, tình yêu của hai vợ chồng được Thiên Chúa đóng ấn; họ nhận được những ơn siêu nhiên giúp họ sống ơn gọi hôn nhân và gia đình, và trở nên dấu chỉ mầu nhiệm Đức Kitô kết hiệp với Hội Thánh. 2. Đặc tính của hôn nhân Công giáo Tình yêu giữa hai vợ chồng Công giáo có ý nghĩa rất phong phú và sâu sắc, vì bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa và rập theo khuôn mẫu tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Tình yêu đó có hai đặc tính là đơn nhất và bất khả phân ly. 2.1. Đơn nhất Đơn nhất nghĩa là một vợ một chồng. “Tự bản chất, tình yêu vợ chồng đòi hỏi sự đơn nhất và bất khả phân ly. “Họ không còn phải là hai, nhưng là một xương một thịt” (x. Mt 19, 6; St 2, 24). Họ được mời gọi không ngừng lớn lên trong tình hiệp thông với nhau qua việc mỗi ngày trung thành sống lời cam kết hôn nhân, là trao hiến trọn vẹn cho nhau. Sự hiệp thông này được củng cố, thanh luyện và hoàn thiện nhờ bí tích Hôn phối đem lại sự hiệp thông trong Đức Kitô. Sự hiệp thông này càng thâm sâu hơn nhờ cùng chia sẻ một đức tin và cùng đón nhận Mình Thánh Chúa[10].” “Phải nhìn nhận sự bình đẳng giữa vợ chồng trong tình tương thân tương ái trọn vẹn, để nhờ đó biểu hiện rõ ràng tính đơn nhất của hôn nhân đã được Đức Kitô xác nhận. Đa thê là đi ngược với tình yêu vợ chồng, cũng như với sự bình đẳng giữa hai vợ chồng[11].” 2.2. Bất khả phân ly Bất khả phân ly nghĩa là không thể ly dị. “Lý do sâu xa nhất đòi hỏi hai vợ chồng phải chung thủy chính là sự trung tín của Thiên Chúa với giao ước, và sự trung tín của Đức Kitô với Hội Thánh. Nhờ bí tích Hôn phối, hai vợ chồng được ban ơn để diễn tả và làm chứng cho sự trung tín ấy. Do bí tích, tính bất khả phân ly của hôn nhân tiếp nhận một ý nghĩa mới và sâu xa hơn[12].” Ngoài ra sự liên kết mật thiết giữa hai vợ chồng, cũng như lợi ích của con cái, buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín với nhau[13]. Chung thuỷ suốt đời với người phối ngẫu là một trong những đặc điểm nổi bật của hôn nhân Công giáo, đồng thời còn có ý nghĩa đặc biệt hơn đối với thế giới hiện nay, khi mà ly dị thường được coi là giải pháp bình thường cho những khó khăn hoặc thất bại trong đời sống hôn nhân. Quả thực, đối với nhiều trường hợp, chung thuỷ là một thách đố lớn lao và phải cậy dựa vào ơn Chúa, vì chỉ nhờ sức riêng của mình mà thôi thì không đủ. Trong đời sống hôn nhân, đôi vợ chồng cần nhớ rằng sự liên kết với nhau không phải chỉ do quyết tâm của họ mà còn là kết quả của ơn Chúa. “Điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly”(Mt 19,6). Hội Thánh không ngừng cầu nguyện cho các đôi vợ chồng được trung thành với nhau suốt đời. Ngược lại, chính Hội Thánh cũng được nâng đỡ luôn trung tín với Chúa Giêsu nhờ sự chung thuỷ của các đôi vợ chồng. 3. Hiệu quả bí tích Hôn phối “Do hôn nhân hợp pháp, giữa vợ chồng phát sinh một mối dây ràng buộc vĩnh viễn và độc nhất tự bản chất. Hơn thế nữa, trong Kitô giáo, vợ chồng được Thiên Chúa tăng sức và thánh hiến bằng một bí tích riêng biệt, để chu toàn những bổn phận và sống xứng đáng bậc sống của mình[14].” Bí tích Hôn phối đem lại hai hiệu quả: “Sự ưng thuận tự do, qua đó đôi phối ngẫu tự trao hiến và tiếp nhận nhau, được chính Thiên Chúa đóng ấn. Từ hôn ước của họ phát sinh một định chế. Định chế này đã được chính Thiên Chúa ấn định và có giá trị trước mặt xã hội. Hôn ước được liên kết với giao ước Thiên Chúa ký kết với nhân loại: Tình yêu vợ chồng đích thực được hoà nhập trong tình yêu Thiên Chúa[15].” “Dây hôn phối do chính Thiên Chúa liên kết, nên hôn nhân thành sự và hoàn hợp, giữa hai người đã được rửa tội, không bao giờ được tháo gỡ. Dây liên kết này là kết quả của việc hai người tự nguyện kết hôn và do sự hoàn hợp của hôn phối. Đây là một thực tại không thể đảo ngược, và trở thành một giao ước được Thiên Chúa trung tín bảo đảm. Hội Thánh không có quyền nói ngược lại sự an bài khôn ngoan của Thiên Chúa[16].” 3.2. Ân sủng của bí tích Hôn phối Ân sủng đặc biệt của bí tích Hôn phối kiện toàn tình yêu vợ chồng, củng cố sự hiệp nhất bất khả phân ly của họ. “Nhờ ân sủng này, họ giúp nhau nên thánh trong đời sống hôn nhân, trong việc đón nhận và giáo dục con cái”.[17] “Đức Kitô là nguồn mạch ân sủng đặc biệt này. Như xưa, Thiên Chúa đến gặp Dân Ngài bằng một giao ước yêu thương và trung thành, thì ngày nay, Đấng Cứu Thế, Bạn Trăm Năm của Hội Thánh cũng đến với đôi vợ chồng qua bí tích Hôn phối. Ngài ở lại với họ, ban cho họ sức mạnh để họ vác thập giá theo Ngài, để họ chỗi dậy mỗi khi sa ngã, để họ tha thứ cho nhau, mang gánh nặng cho nhau, “phục tùng nhau trong sự kính sợ Đức Kitô” (Ep 5,21), và yêu thương nhau với một tình yêu siêu nhiên, tế nhị và phong phú. Trong khi họ vui hưởng tình yêu và cuộc sống gia đình, Ngài ban cho họ, ngay từ đời này, được nếm trước hạnh phúc Nước Trời[18].” 4 GHI NHỚ : 1. H. Hôn nhân Công giáo là gì? T. Hôn nhân Công giáo là bí tích Chúa Giêsu đã lập, để kết hợp hai người tín hữu, một nam một nữ, thành vợ chồng trước mặt Thiên Chúa và Hội Thánh, cùng ban ơn giúp họ sống xứng đáng ơn gọi của mình. 2. H. Hôn nhân Công giáo có những đặc tính nào? T. Hôn nhân Công giáo có hai đặc tính này: 3. H. Bí tích Hôn phối ban cho vợ chồng những ơn nào? T. Bí tích Hôn phối ban ơn giúp các đôi vợ chồng yêu thương nhau, như Đức Kitô đã yêu thương Hội Thánh, kiện toàn tình yêu tự nhiên, củng cố sự hiệp nhất bất khả phân ly và thánh hoá họ trong đời sống siêu nhiên. 5 GỢI Ý SUY NGHĨ : 1. Khi nhìn vào tình yêu Đức Kitô dành cho Hội Thánh, anh chị học được điều gì cho tình yêu của anh chị? 6. CẦU NGUYỆN : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương Hội Thánh đến độ đã hiến mình vì Hội Thánh để Hội Thánh được xinh đẹp lộng lẫy, thánh thiện tinh tuyền. Chúng con đang đứng trước ngưỡng cửa ơn gọi hôn nhân và gia đình, xin cho chúng con biết đến với Chúa, lắng nghe Lời Chúa, nhìn ngắm mẫu gương của Chúa, để học biết yêu thương như Chúa. Xin đổ Thánh Thần Tình yêu của Chúa xuống trên chúng con để chúng con có đủ can đảm bước theo con đường Chúa đang mời gọi chúng con. Amen. [1] x. Hs 1-3; Is 54; 62; Gr 2-3; 31; Ed 16; 23 Bài 3. Giáo luật về Bí tích Hôn phối “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9). Hôn nhân không chỉ liên quan đến hai vợ chồng mà còn liên quan đến một phạm vi rộng lớn hơn, từ họ hàng hai bên cho đến xã hội, bởi vì gia đình là tế bào căn bản của xã hội. Gia đình có êm ấm thì xã hội mới ổn định và bền vững. Vì mang tính xã hội, nên hôn nhân cần được pháp luật chứng nhận và bảo vệ. Tại Việt Nam, về mặt dân sự ta có luật “Hôn nhân và Gia đình” được Quốc Hội thông qua ngày 09.6.2000, gồm 110 điều. Còn về mặt tôn giáo, trong bộ luật của Hội Thánh, được gọi là giáo luật, ban hành ngày 25.01.1983, có 111 khoản về hôn nhân. Luật của Hội Thánh chỉ ràng buộc đối với người Công giáo[1]. Khi đưa ra những luật này, Hội Thánh nhắm giúp con cái mình xây dựng một cuộc sống hôn nhân và gia đình bền vững, hạnh phúc, thánh thiện, thể hiện ơn gọi hôn nhân và gia đình như ý Thiên Chúa muốn. 1. Điều kiện cử hành bí tích Hôn phối Để Bí tích Hôn phối thành sự, cần những điều kiện sau: 2. Các ngăn trở Hôn phối Ngăn trở hôn phối là tình trạng hay hoàn cảnh làm cho cuộc hôn phối không thành sự hoặc bất hợp pháp. Để có thể kết hôn thành sự, cả hai phải trong tình trạng tự do, không bị ngăn trở nào theo luật tự nhiên hoặc luật Hội Thánh. Những ngăn trở thuộc luật tự nhiên dựa trên hôn nhân như một định chế tự nhiên, chúng chi phối mọi người. Những ngăn trở thuộc luật Hội Thánh dựa trên bản chất bí tích của hôn nhân, cũng như trên mối liên hệ của hôn nhân với cộng đồng tín hữu, chỉ chi phối người Công giáo mà thôi. Các ngăn trở hôn phối gồm có: 2.1. Ngăn trở do chưa đủ tuổi để kết hôn Để kết hôn thành sự, nam phải đủ 16 tuổi, nữ phải đủ 14 tuổi[5]. Tuy nhiên, Hội Đồng Giám mục của mỗi quốc gia có quyền quy định tuổi cao hơn để kết hôn hợp pháp[6]. Tại Việt Nam, nam phải từ 20 tuổi trở lên, nữ 18 tuổi trở lên, theo như Luật Hôn nhân và Gia đình điều 9. 2.2. Ngăn trở do bất lực Một trong hai người trước khi kết hôn đã mắc chứng bất lực, không thể chữa trị được[7]. Bất lực khác với vô sinh. Bất lực là không thể giao hợp. Còn vô sinh là không thể có con. Việc vô sinh không phải là một ngăn trở hôn phối[8]. 2.3. Ngăn trở do đã kết hôn Một trong hai người còn bị ràng buộc bởi dây Hôn phối trước[9]. Ngăn trở này chỉ chấm dứt khi: 2.4. Ngăn trở do khác biệt tôn giáo Một bên Công giáo, còn một bên không Công giáo[13]. 2.5. Ngăn trở do chức thánh Những người đã chịu chức thánh không thể kết hôn thành sự[14]. Những người có chức thánh gồm: Giám mục, linh mục và phó tế. 2.6. Ngăn trở do khấn dòng Những người chính thức thuộc về một dòng tu bằng lời khấn công khai sẽ vĩnh viễn sống khiết tịnh (hay còn gọi là khấn trọn đời, vĩnh khấn) không thể kết hôn thành sự[15]. 2.7. Ngăn trở do bắt cóc Hôn nhân bất thành đối với trường hợp bắt cóc người nữ để lấy cô ta[16]. 2.8. Ngăn trở do tội mưu sát phối ngẫu - Giết vợ hay giết chồng mình (kể cả âm mưu hoặc đồng loã) để lấy người khác. 2.9. Ngăn trở do họ máu (huyết tộc) - Theo hàng dọc: hôn nhân bất thành giữa mọi người trong họ máu hàng dọc[18]. 2.10. Ngăn trở do họ kết bạn Hôn thuộc theo hàng dọc dù ở cấp nào cũng tiêu huỷ hôn phối[20]. Ví dụ, giữa cha chồng với con dâu, chàng rể với mẹ vợ. Tuy nhiên, theo hàng ngang thì không bị ngăn trở. Ví dụ: anh chồng có thể lấy em dâu, vợ chết có thể lấy em vợ. 2.11. Ngăn trở do công hạnh Hay còn gọi là ngăn trở liêm sỉ. Ngăn trở này phát sinh do cuộc hôn phối bất thành sau khi đã có sống chung, hoặc do tư hôn công nhiên hay công khai. Ngăn trở này tiêu hủy hôn nhân giữa người nam với các người họ máu của người nữ bậc một hàng dọc, và ngược lại[21]. Chẳng hạn: nếu anh X đã từng chung chạ với cô Y, thì không thể lấy mẹ hoặc con riêng của cô Y; và cô Y cũng không thể lấy cha hoặc con riêng của anh X. 2.12. Ngăn trở do pháp tộc Những người có họ hàng thân thuộc pháp lý do nghĩa dưỡng, ở hàng dọc hoặc hai bậc hàng ngang, không thể kết hôn với nhau thành sự[22]. Ngăn trở này làm hôn nhân bất thành giữa: con nuôi với cha mẹ nuôi; con nuôi với cha mẹ hoặc con cháu ruột của cha mẹ nuôi; hai con nuôi của cùng một cha mẹ nuôi. 3. Chuẩn ngăn trở Nếu mắc phải một trong các ngăn trở trên, dù hai người có lấy nhau, hôn phối vẫn không thành. Đó chỉ là một sự chung chạ bất hợp pháp mà thôi. Để kết hôn thành sự và hợp pháp, cần phải xin phép chuẩn. Tuy nhiên, không phải ngăn trở nào Hội Thánh cũng có thể miễn chuẩn được. Đối với những ngăn trở thuộc luật tự nhiên, Hội Thánh không có quyền miễn chuẩn. Đó là những ngăn trở: - Do bất lực[23]. Đối với những ngăn trở chỉ do luật Hội Thánh mà thôi thì Hội Thánh có quyền miễn chuẩn, và khi được miễn chuẩn thì cuộc hôn nhân thành sự. Các ngăn trở Hội Thánh có thể miễn chuẩn khi có lý do chính đáng: Riêng đối với các cuộc hôn nhân khác tôn giáo, sở dĩ Hội Thánh dè dặt và thận trọng chỉ vì yêu thương con cái. Muốn gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải hoà hợp. Tín ngưỡng là một vấn đề quan trọng. Nếu có sự khác biệt thì dễ xảy ra xung khắc, đe doạ sự hoà hợp, nhất là đối với việc giáo dục con cái. Tuy nhiên, cũng vì tôn trọng tự do, Hội Thánh không cấm đoán. Hội Thánh hy vọng lòng đạo đức của bên này sẽ thánh hoá bên kia[27]. 4. Sự ưng thuận kết hôn Hội Thánh coi việc hai người bày tỏ sự ưng thuận kết hôn là yếu tố cần thiết “làm nên hôn nhân”. Thiếu sự ưng thuận này thì hôn nhân không thành[28]. “Sự ưng thuận kết hôn là hành vi nhân linh - nghĩa là hành vi của con người có ý thức và tự do -, trong đó hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau: “Anh nhận em làm vợ”; “Em nhận anh làm chồng”. Sự ưng thuận này nối kết hai vợ chồng lại với nhau và được thể hiện trọn vẹn khi hai người “trở nên một xương một thịt” (x. St 2,24; Mc 10,8; Ep 5,31)[29]”. Bởi vậy, “sự ưng thuận này phải là một hành vi ý chí của mỗi bên kết hôn, không bị cưỡng bức vì bạo lực hay quá sợ hãi do một nguyên cớ bên ngoài. Không một quyền hành nào của loài người có thể thay thế sự ưng thuận này. Nếu thiếu sự tự do này, cuộc hôn nhân sẽ không thành[30]”. Thiếu sự tự do ưng thuận thực sự giữa hai bên, khi: 5. Thể thức hôn phối Để Hôn nhân thành sự, đôi hôn phối cần phải cử hành theo thể thức của Hội Thánh: Hôn nhân chỉ thành sự khi được kết ước trước mặt vị chứng hôn có thẩm quyền: hoặc cha xứ, hoặc một linh mục, hay phó tế được một trong hai vị trên ủy quyền, cùng với hai người làm chứng[40]. Linh mục (hay phó tế) chứng giám nghi thức Hôn phối, nhân danh Hội Thánh nhận lời ưng thuận của đôi hôn phối và chúc lành cho họ. Sự hiện diện của thừa tác viên Hội Thánh và của những người làm chứng cho thấy rõ hôn nhân là một bậc sống trong Hội Thánh[41]. Ngoài ra, còn phải cử hành tại nhà thờ giáo xứ, nơi một trong hai người kết hôn có chỗ thường trú, hoặc tạm trú một tháng. Nếu muốn cử hành nơi khác, phải có phép của Đấng Bản quyền sở tại hoặc cha xứ.[42] 4 GHI NHỚ : 1. H. Để Bí tích Hôn phối thành sự phải có những điều kiện nào? T. Phải có bốn điều kiện này: 2. H. Ngăn trở hôn phối là gì? T. Ngăn trở hôn phối là những hoàn cảnh hoặc trường hợp làm cho cuộc phôn phối không thành sự hoặc bất hợp pháp. 3. H. Có bao nhiêu ngăn trở hôn phối? T. Có 12 ngăn trở sau đây: 4. H. Khi mắc ngăn trở thì phải làm gì? T. Phải xin phép chuẩn. Tuy nhiên, có những ngăn trở Hội Thánh cũng không thể miễn chuẩn được, đó là các trường hợp: 5. H. Vì sao sự ưng thuận kết hôn là yếu tố cần thiết làm nên hôn nhân? T. Vì sự ưng thuận này nối kết hai vợ chồng lại với nhau và được thể hiện trọn vẹn khi hai người “trở nên một xương một thịt”. Không một quyền hành nào của loài người có thể thay thế sự ưng thuận này. Thiếu sự tự do này, cuộc hôn nhân sẽ không thành. 6. H. Những trường hợp nào thiếu sự tự do ưng thuận kết hôn? T. Những trường hợp sau đây: 5 GỢI Ý SUY NGHĨ : 1. Vì sao Hội Thánh lại có những điều luật về Hôn nhân? Đâu là mục đích của những điều luật đó? 6 CẦU NGUYỆN : Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa, vì Chúa hằng yêu thương chúng con. Xưa kia Chúa đã ban lề luật cho dân Israel, để giúp họ sống trung thành với giao ước, xứng đáng là dân Chúa. Chúa đã mời gọi chúng con bước vào đời sống hôn nhân và gia đình, để làm chứng cho tình yêu của Chúa, và Chúa đã ban cho chúng con Hội Thánh, để hướng dẫn chúng con. Xin giúp chúng con biết nghe theo lời giáo huấn của Hội Thánh, để cùng nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc như ý Chúa muốn. Amen. [1] x. GL 11; 1059; 1075 §2 “Nếu anh em nào có vợ ngoại mà người đó thuận ở với mình, Thế giới ngày nay được đánh dấu bằng những mối giao lưu nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhất là trong lãnh vực truyền thông đại chúng. Con số những cuộc hôn nhân giữa những người khác đạo càng ngày càng gia tăng. Đây là một trong những ưu tư đặc biệt của Hội Thánh Công giáo đối với đời sống hôn nhân và gia đình của con cái mình, vì những cuộc hôn nhân này thường gặp nhiều khó khăn do những khác biệt về niềm tin. 1. Thế nào là hôn nhân khác tôn giáo? Hôn nhân khác tôn giáo là hôn nhân giữa một bên là Công giáo và một bên không phải là Công giáo. - Nếu bên không Công giáo, nhưng đã được rửa tội trong Hội Thánh Tin Lành hay Chính Thống, thì hôn nhân này được gọi là hôn nhân dị tín hay hôn nhân hỗn hợp. - Nếu bên không Công giáo chưa được rửa tội, thì hôn nhân này được gọi là hôn nhân dị giáo hay hôn nhân khác đạo. Ví dụ hôn nhân giữa một người Công giáo và một người Phật giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Do Thái giáo v.v.... kể cả trường hợp một người không theo tôn giáo nào. 2. Hậu quả của những cuộc hôn nhân khác tôn giáo Sau đây là 2 trường hợp có thể xảy ra: 2.1. Hôn nhân sẽ hạnh phúc, nếu hai bên biết tôn trọng nhau, “đạo ai người ấy giữ”. Phía không Công giáo thực sự để cho bạn mình được tự do thờ phượng và chăm sóc đức tin cho con cái như đã thoả thuận lúc ban đầu. Phía Công giáo sống thật tốt và giúp phía không Công giáo nhận được ơn Chúa. 2.2. Hôn nhân có thể gặp nguy hiểm và tan vỡ, nếu hai bên không chịu nhân nhượng nhau trước những mối bất đồng do sự khác biệt về niềm tin tạo ra. Phía Công giáo có thể trở nên nguội lạnh và đi đến chỗ bỏ đạo. 3. Giáo luật về Hôn nhân khác đạo Tại Việt Nam, ngày nay vẫn có nhiều vị hữu trách và cha mẹ tỏ thái độ quá dè dặt, khắt khe đối với con cái trong hôn nhân khác tôn giáo: “Bắt buộc trở lại đạo Công giáo mới cho phép làm đám cưới!” Một số khác lại quá dễ dãi: “Đạo ai nấy giữ, chẳng cần chuẩn chiếc gì hết!” Cả hai thái độ trên đều không phù hợp với ý muốn của Hội Thánh Công giáo. Hội Thánh có phép chuẩn cho những hôn nhân khác tôn giáo. Theo luật hiện nay của Hội Thánh: - Hôn nhân hỗn hợp chỉ hợp pháp khi có phép rõ ràng của giáo quyền[1]. Bởi vậy, nếu ở trong trường hợp Hôn nhân hỗn hợp hoặc hôn nhân khác đạo, đôi bạn cần trình bày với cha xứ để được hướng dẫn về thủ tục xin phép chuẩn nơi Đức Giám Mục Giáo phận. Muốn được phép chuẩn: 4. Tại sao Hội Thánh bận tâm và tỏ ra dè dặt? Nhìn vào những quy định trên, ta thấy thái độ của Hội Thánh là một sự nhượng bộ vì không thể tránh được, chứ không hề khuyến khích. Tuy nhiên, người ta có cảm tưởng Hội Thánh Công giáo không “công bằng” khi đòi hỏi đức tin Công giáo phải được ưu tiên! Hội Thánh lấy quyền gì để đòi hỏi hai bên phải thoả thuận như thế? Có thể nói đó là như quyền của bậc cha mẹ trước hạnh phúc của con cái, chẳng khác nào việc trao đổi giữa hai gia đình trước ngày đính hôn, mỗi bên nêu rõ nguyện vọng của mình vì hạnh phúc lâu bền của con cái. Thế nhưng, tại sao Hội Thánh lại phải bận tâm đến như vậy? Thưa vì những lý do sau: - Hội Thánh biết rằng, bên cạnh tình yêu, niềm tin tôn giáo là một trong những yếu tố quan trọng đối với đời sống hôn nhân và gia đình, bởi vì tôn giáo không chỉ ảnh hưởng đến lối suy nghĩ, cách hành xử, mà còn ảnh hưởng đến những chọn lựa trước những vấn đề của cuộc sống, nhất là trong việc giáo dục con cái. Do khác biệt quan điểm một cách sâu xa như thế, những cuộc hôn nhân khác tôn giáo thường gặp nhiều trở ngại, khó đạt được hạnh phúc và nếu tan vỡ thì phía người Công giáo sẽ bị thiệt thòi nhiều hơn, vì họ không thể lập gia đình lại, bao lâu người kia còn sống. Thực vậy, tục ngữ Việt Nam có câu: “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”. Để gia đình được hạnh phúc, cả hai vợ chồng cần phải nỗ lực và góp sức. Đây không phải là chuyện dễ, vì trong thực tế có khá nhiều khác biệt giữa họ: khác biệt về giới tính, về tính tình, về giáo dục, về gia đình, về lối sống v.v.... Nếu cùng chung một niềm tin tôn giáo, họ sẽ có được một nền tảng vững chắc, giúp vượt qua những khó khăn và thử thách, biết dùng những khác biệt để bổ túc cho nhau và làm cho cuộc sống gia đình thêm phong phú. Lúc ấy, người bạn đời cũng là người bạn đạo, cả hai cùng mang một chí hướng, đó là xây dựng tổ ấm gia đình hạnh phúc trong yêu thương và hiệp nhất. - Trong hôn nhân hỗn hợp giữa một người Công giáo và một Kitô hữu thuộc hệ phái khác (Tin Lành, Chính Thống...) những khó khăn cũng không nhỏ. Những khó khăn này xuất phát từ sự chia rẽ giữa các Kitô hữu đến nay vẫn chưa giải quyết được. Đôi vợ chồng có thể cảm nghiệm được thảm kịch ấy ngay trong gia đình của mình. Tuy nhiên, những khó khăn này có thể vượt qua, nếu đôi bạn biết cố gắng kết hợp những gì tốt đẹp đã lãnh nhận nơi cộng đoàn mình và cùng nhau học hỏi, chia sẻ để giúp nhau sống trung thành với Đức Kitô. - Trong hôn nhân khác đạo giữa một người Công giáo và một người không tin vào Đức Kitô, sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Những bất đồng quan điểm về niềm tin và hôn nhân, có thể dẫn đến những căng thẳng trong gia đình, nhất là việc giáo dục con cái[4]. Hội Thánh xác tín rằng: đức tin Kitô giáo mà con cái mình đã nhận được là một quà tặng vô giá Thiên Chúa ban. Hội Thánh không muốn đức tin ấy bị mai một, nhưng luôn có những điều kiện thuận lợi để được tồn tại và phát triển. Vì thế, Hội Thánh luôn đòi hỏi phải thoả thuậïn với nhau trước khi bước vào hôn nhân có phép chuẩn. 5. Những thái độ sống 5.1. Đối với nhau Hôn nhân khác tôn giáo là một thách đố lớn với nhiều khó khăn cần vượt qua. Tuy nhiên, nếu đôi bạn đã suy nghĩ, cân nhắc kỹ lưỡng, cuối cùng vẫn không thể lìa xa nhau. Tình yêu quả là một mầu nhiệm! Đôi bạn hãy mở rộng cõi lòng đón nhận cuộc sống và tích cực cư xử tốt với nhau. - Phía Công giáo hãy can đảm đón nhận điều Hội Thánh chờ đợi họ: Làm chứng cho Tin Mừng. Vào thời buổi khó khăn hiện nay, cuộc sống tốt lành đầy tin yêu của người bạn đời sẽ là lời chứng sống động và hùng hồn, át hẳn những gương xấu trong Hội Thánh. Ước gì tình huống của hai người trở thành dịp may cho phía không Công giáo đặt vấn đề về Thiên Chúa của người Công giáo. Ước gì chính thái độ nghiêm túc của Hội Thánh đối với những cuộc hôn nhân khác đạo khiến người trong cuộc đặt câu hỏi về tầm quan trọng của đức tin Công giáo. - Phía Công giáo đừng quên rằng mình phải chịu trách nhiệm về đức tin của bạn mình. Họ phải biết trân trọng trao vào tay bạn mình một quyển Tin Mừng hay một quyển Kinh Nguyện Gia đình và tha thiết cầu nguyện cho bạn mình mỗi ngày. Hơn nữa, còn phải học hỏi giáo lý và sống đạo cách sâu xa và triệt để hơn. Đừng quên rằng mỗi người phải cố gắng tìm hiểu những ưu điểm lòng tin của bạn mình, để thêm tôn trọng và quý mến nhau. Chỉ khi nào ta biết chân thành đón nhận ưu điểm của bạn, ta mới có thể giúp bạn mở lòng đón nhận ưu điểm của ta. Với Ơn Chúa, thái độ ấy sẽ giúp đôi bên làm phong phú cho nhau. 5.2. Với gia đình hai bên Sự khác biệt tôn giáo không chỉ tạo khoảng cách giữa hai người mà còn tạo khoảng cách với gia đình của bạn mình, một khoảng cách vô hình nhưng đôi khi hết sức to lớn. Đây là chỗ để phía Công giáo gia tăng lòng trông cậy vào ơn Chúa. Đã chọn lựa một cuộc hôn nhân đầy khó khăn, phía Công giáo phải luôn tin tưởng vào ơn Chúa. “Ai thực sự cậy trông Chúa sẽ không bao giờ phải thất vọng”. Với lòng khiêm nhường, hãy cầu nguyện, hãy sống chân thành và khi có dịp, đừng ngại chia sẻ niềm tin cho những người mình yêu mến. Cách riêng trong việc thờ cúng tổ tiên, cả hai cần học hiểu kỹ quan điểm của Hội Thánh Công giáo và chu toàn phận vụ mình trong gia tộc cách tận tuỵ. Tóm lại, mỗi bên cần phải làm hết sức để giúp gia đình mình hiểu và quý trọng thái độ tôn giáo của bạn mình. 5.3. Với cộng đoàn giáo xứ Khi lập gia đình với người khác đạo, phía Công giáo có thể bỗng dưng thấy mình trở nên xa cách với mọi người trong giáo xứ. Cần vượt thắng tâm trạng ấy, bởi lẽ đây chính là lúc họ cần gắn bó hơn với giáo xứ để được nâng đỡ và cầu nguyện. Hãy thắt chặt tình thân với một nhóm gia đình trong giáo xứ, luôn gần gũi nhau như những người bạn nghĩa thiết. Hãy tận dụng những cơ hội sẵn có trong tình bạn để quan hệ giữa gia đình nhỏ của mình với cộng đoàn được tự nhiên. Sự gắn bó ấy sẽ là yếu tố quan trọng nâng đỡ và đồng hành với đôi bạn trong cuộc sống hạnh phúc. 6. Kỳ vọng của Mẹ Hội Thánh Những cuộc hôn nhân khác đạo bao giờ cũng có nhiều khó khăn, dù vậy Hội Thánh luôn tin tưởng vào ơn Chúa và cầu nguyện cho họ. Hội Thánh tin tưởng ở thiện chí của họ và ước mong rằng “chồng ngoại được thánh hóa nhờ vợ, và vợ ngoại được thánh hóa nhờ người chồng có đạo” (1Cr 7,14). “Thật là một niềm vui lớn cho bên Công giáo và cho Hội Thánh nếu “việc thánh hoá này” đưa người không Công giáo tự nguyện đón nhận đức tin Công giáo.[5] Chính tình yêu hôn nhân chân thành, việc khiêm tốn và kiên nhẫn thực thi những nhân đức gia đình và siêng năng cầu nguyện có thể chuẩn bị cho người không có đạo được ơn làm con Chúa[6].” 4 GHI NHỚ : 1. H. Tôn giáo có vai trò nào trong đời sống hôn nhân và gia đình? T. Tôn giáo có một vai trò rất quan trọng trong đời sống hôn nhân và gia đình, vì ảnh hưởng đến lối suy nghĩ, cách xử sự và việc giáo dục con cái. 2. H. Hội Thánh có cho phép chuẩn để kết hôn với người ngoài Công giáo không? T. Có, với những điều kiện sau đây: 3. H. Khi kết hôn với người khác đạo, người tín hữu có thể gặp những nguy hiểm nào? T. Người tín hữu có thể gặp những nguy hiểm này: 4. H. Nếu lập gia đình với người khác đạo, bên Công giáo cần phải sống thế nào? T. Nếu lập gia đình với người khác đạo, bên Công giáo cần phải sống tốt đạo và trở nên chứng nhân Tin mừng cho con cái và người bạn đời. 5. GỢI Ý SUY NGHĨ : 6. CẦU NGUYỆN : Lạy Chúa, chúng con tin thật rằng mọi người đều được tạo dựng nên giống hình ảnh Chúa. Chúa đã mời gọi chúng con bước vào cuộc sống hôn nhân và gia đình, xin giúp chúng con khao khát xây dựng gia đình chúng con theo thánh ý Chúa. Xin nâng đỡ và củng cố tình yêu đầy những giới hạn của chúng con. Chúng con cầu nguyện cách riêng cho những anh chị lập gia đình với người không cùng một đức tin với mình. Xin gửi Thánh Thần Tình yêu đến liên kết họ, giúp họ vượt qua những khác biệt để họ có thể trở thành không những là người bạn đời, mà còn là người bạn đạo của nhau. Amen [1] x. GL 1124 Bài 5. Các thủ tục và nghi lễ Hôn phối “Ta hãy vui mừng hoan hỉ, hãy tôn vinh Chúa! Tự bản chất, hôn nhân mang tính xã hội, vì nối kết đôi bạn trước mặt gia đình, bạn bè, cũng như trước mặt toàn thể xã hội. Chính vì thế, xã hội nào cũng có những quy định về cưới hỏi, tạo nên những phong tục, tập quán riêng. Đối với Kitô giáo, hôn nhân là một bậc sống trong Hội Thánh và đã được Đức Kitô nâng lên hàng bí tích. Bởi vậy, đối với bí tích Hôn phối, Hội Thánh cũng có những thủ tục và lễ nghi nhằm diễn tả bản chất đích thực của giao ước hôn nhân, đồng thời giúp đôi tân hôn đón nhận dồi dào ơn sủng do bí tích Hôn phối mang lại. Là Kitô hữu Việt Nam, khi tổ chức hôn lễ, chúng ta cần diễn tả đức tin theo nét văn hoá truyền thống của mình. 1. Các thủ tục và nghi lễ dân sự 1.1. Các thủ tục về mặt dân luật - Đăng ký kết hôn: tại Ủy ban Nhân dân, nơi đang cư trú (xã, phường, thị trấn) của một trong hai bên kết hôn[1]. Sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật, cơ quan hữu trách sẽ kiểm tra hồ sơ; nếu xét thấy hai bên có đủ điều kiện thì sẽ tổ chức đăng ký kết hôn[2]. - Tổ chức đăng ký kết hôn: Khi tổ chức đăng ý kết hôn phải có mặt hai bên nam nữ. Đại diện cơ quan yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý, thì sẽ trao Giấy chứng nhận kết hôn[3]. 1.2. Các nghi lễ theo truyền thống Việt Nam Nghi lễ cưới hỏi của Việt Nam chịu ảnh hưởng khá nhiều văn hoá Trung Quốc. Theo sách xưa, việc hôn nhân gồm có: Nạp thái, Vấn danh, Nạp cát, Nạp tệ, Thỉnh kỳ, Thân nghinh[4]. Ngày nay, các lễ trên đã được đơn giản hoá và thu gọn vào trong ba lễ sau: 1.2.1. Lễ dạm hay chạm ngõ Trước đây, việc hôn nhân là do cha mẹ ấn định qua người mai mối (ông mai bà mai), nên nhiều đôi trai gái không hề biết nhau. Lễ “chạm ngõ” là để chàng trai xem mặt cô gái, và cũng để cô gái thấy mặt chàng trai của mình. Đây cũng là dịp để gia đình hai bên chính thức xác nhận việc mai mối của ông mai bà mai. Lễ dạm là nghi thức đầu tiên, sau khi đôi trai gái yêu nhau và được cha mẹ hai bên đồng ý. Dạm là ướm hỏi xem có ưng thuận không. Gia đình hai bên gặp nhau để xin cho đôi trai gái được chính thức đi lại tìm hiểu nhau. Nghi thức này thường được tổ chức giới hạn trong gia đình hai bên. Tuy nhiên, ngày nay nhiều nơi đã bỏ lễ này, chỉ còn giữ lễ đính hôn và lễ cưới. 1.2.2. Lễ đính hôn (hay lễ hỏi, đám nói hay đám hỏi) Sau thời gian tìm hiểu, bên nhà trai mang lễ vật đến nhà gái chính thức xin cầu hôn. Lễ hỏi thường gồm trầu cau, rượu, chè (trà) và bánh trái. Tất cả được đựng trong hộp màu đỏ hoặc gói giấy đỏ vì màu đỏ chỉ sự vui mừng. Những lễ vật của nhà trai mang tới được nhà gái đặt một ít lên bàn thờ gia tiên. Lễ xong, bánh trái, trầu cau, chè được nhà gái “lại quả” cho nhà trai một ít, còn lại nhà gái dùng để chia cho họ hàng, thân quyến. Mục đích của việc chia bánh trái, biếu trầu cau là để báo tin cho họ hàng bạn bè nhà gái biết con gái mình đã đính hôn. 1.2.3. Lễ cưới (trai thì Thành Hôn, gái thì Vu Quy) - Lễ Vu Quy: Lễ cưới cử hành tại nhà gái được gọi là Lễ Vu Quy, tức là lễ cho con gái về nhà chồng. Trước đây, lễ này còn được gọi là lễ nghênh thân hay lễ nghênh hôn, vì trong lễ này chú rể phải tới nhà bố mẹ vợ để đón cô dâu. Bởi vậy, lễ nghênh thân còn được gọi là lễ đón dâu. Nhà trai đem lễ vật đến đặt trước bàn thờ. Nhà gái kiểm lại xem có đầy đủ như đã thỏa thuận không. Sau khi công nhận đầy đủ, thì cho thắp đèn trên bàn thờ để chú rể và cô dâu làm lễ gia tiên. Chú rể lạy bốn lạy trước bàn thờ để trình diện gia tiên, tiếp đến cô dâu lạy để xin phép xuất giá. Sau đó, chú rể và cô dâu lạy ông bà, cha mẹ, cô dì, cậu mợ, chú bác, và họ hàng nhà gái. Đây cũng là lúc cha mẹ và những người trong thân tộc nhà gái tặng tiền hay quà cho dâu rể mới. Tiếp đến là tiệc mặn hay lạt. Cuối tiệc, trước khi cho đón dâu về nhà chồng, đại diện nhà gái gởi gắm cô dâu cho nhà trai, xin nhà trai đón nhận người con dâu vào trong gia đình và chỉ giáo thêm. Tại Nam Bộ, Lễ Vu Quy được tổ chức long trọng ngày hôm trước lễ cưới. Trong lễ này, nhà gái mời tất cả thân tộc nội ngoại và cô dâu mời bạn bè dự tiệc. Thường chú rể cũng phải đến trong bữa tiệc này để trình diện dòng họ nhà gái. Tối hôm trước ngày cưới, thường có nghi lễ xuất giá rất cảm động, cô dâu lạy bàn thờ tổ tiên, rồi ông bà, cha mẹ, những người thân trong gia đình. Lúc này, những người trong thân tộc tặng quà, tiền cho cô dâu. - Lễ Thành Hôn: Lễ cưới được tổ chức tại nhà trai gọi là lễ rước dâu. Đây mới chính là lễ Thành Hôn. Đoàn rước về đến nhà trai, cô dâu được đưa đến trước bàn thờ để làm nghi lễ thành hôn. Nghi thức nổi bật nhất là đốt đèn trên bàn thờ gia tiên. Sau đó cô dâu lạy ông bà, cha mẹ chồng, chào những người trong dòng họ nhà chồng. Lúc này, những người trong thân quyến bên chồng sẽ tặng quà, tiền. Sau đó là nhập tiệc. Cuối tiệc, đại diện nhà gái gởi gắm cô dâu cho nhà trai, và nhà trai giã từ nhà gái. 2. Các thủ tục và nghi lễ tôn giáo 2.1. Các thủ tục theo giáo luật Các thủ tục của Hội Thánh có mục đích bảo đảm những điều kiện trên, giúp đôi bạn cử hành Bí tích Hôn phối được thành sự. - Chuẩn bị: Khi có ý định tiến tới hôn nhân, hai bên nam nữ cần đến gặp cha xứ (thường là cha xứ bên nữ). Cha xứ sẽ trao đổi và giúp anh chị làm tờ khai hôn phối, để biết anh chị có đúng là Kitô hữu không (đã Rửa tội, Rước lễ và Thêm sức chưa), có hiểu rõ ý nghĩa của hôn nhân Kitô giáo, có biết rõ nhiệm vụ của vợ chồng và cha mẹ Kitô hữu không[5]. Ngài sẽ giúp anh chị học hoặc ôn lại giáo lý hôn nhân cũng như cách sống đức tin trong đời sống hôn nhân và gia đình[6]. Việc chuẩn bị này là điều rất quan trọng để lời cam kết của hai anh chị trở thành một hành vi tự do và có trách nhiệm, cũng như hôn ước của anh chị có được nền tảng tự nhiên và siêu nhiên, vững chắc và lâu dài[7]. Để giúp anh chị kết hôn thành sự và hợp pháp theo như luật của Hội Thánh quy định, ngài cũng cần phải biết chắc hai anh chị không bị mắc ngăn trở nào[8]. Nếu có, ngài sẽ giúp anh chị giải quyết. Ngoài ra, anh chị cũng cần được hướng dẫn để hiểu rõ ý nghĩa các nghi thức khi cử hành bí tích Hôn phối[9]. - Nếu anh hoặc chị thuộc một giáo xứ khác thì phải trình giấy chứng nhận Rửa tội và Thêm sức. Việc chịu phép Rửa tội là cần thiết để lãnh nhận thành sự bí tích Hôn phối. Còn đối với bí tích Thêm sức, luật Hội Thánh quy định: “Người Công giáo nếu chưa Thêm sức, phải lãnh nhận bí tích này trước khi kết hôn[10]. Bí tích Thêm sức giúp củng cố và làm tăng trưởng đức tin trong đời sống vợ chồng và của con cái sau này. Riêng đối với bí tích Giao hoà và Thánh Thể, Hội Thánh khuyên: “Để lãnh nhận bí tích Hôn phối cho có kết quả, hết sức khuyên đôi vợ chồng lãnh nhận các bí tích Giao hoà và Thánh Thể[11].” - Rao hôn phối[12] : Sau khi học hỏi giáo lý hôn nhân xong, nếu hai bên quyết định dứt khoát kết hôn, thì trình cho cha xứ bên gái biết. Ngài sẽ làm lời rao hôn phối và rao trong ba Chúa nhật ở giáo xứ của mỗi bên. Việc rao hôn phối tại mỗi xứ nhằm để cho mọi người trong cộng đoàn biết, thêm lời cầu nguyện và xem xét có gì ngăn trở thì giải quyết trước hoặc trình báo với cha xứ, đồng thời cũng để ấn định lễ cưới[13]. Sau cùng, anh chị cũng cần nhớ: trước khi làm lễ cưới ở nhà thờ, anh chị phải hoàn tất thủ tục đăng ký kết hôn theo dân luật. - Cử hành bí tích Hôn phối . Địa điểm: tại nhà thờ giáo xứ của bên nữ hoặc bên nam. Nếu cử hành tại một nhà thờ khác hay một nhà nguyện, cần có phép của cha xứ [14]. . Nhân chứng: cần có 2 người làm chứng[15]. . Chứng hôn: Người chứng hôn là người hiện diện để đòi hỏi hai bên kết ước bày tỏ sự ưng thuận lấy nhau và nhân danh Hội Thánh đón nhận sự bày tỏ ấy. Bình thường, cha xứ là người chứng hôn[16]. Ngài có thể uỷ quyền cho các linh mục khác, hoặc phó tế chứng hôn[17]. Nơi nào thiếu linh mục và phó tế, Đức Giám mục giáo phận có thể uỷ quyền chứng hôn cho một giáo dân xứng hợp[18]. - Ghi sổ: Sau khi cử hành bí tích Hôn phối, đôi tân hôn, vị chứng hôn và hai người làm chứng ký tên vào Sổ Hôn phối[19]. Sau đó ghi việc kết hôn vào sổ rửa tội của đôi tân hôn[20]. 2.2. Nghi thức bí tích Hôn phối “Vì các bí tích đều liên quan trực tiếp đến Bí tích Thánh Thể nên bình thường Bí tích Hôn phối phải được cử hành trong Thánh lễ”[21]. “Trong thánh lễ, chúng ta tưởng niệm Giao Ước mới, trong đó Đức Kitô kết hiệp vĩnh viễn với Hội Thánh là Hiền Thê được Ngài yêu mến và hiến thân để thánh hoá. Do đó, bí tích Hôn phối được cử hành trong thánh lễ thật là thích hợp: đôi hôn phối bày tỏ sự ưng thuận hiến thân cho nhau bằng việc liên kết với Đức Kitô hiến thân cho Hội Thánh, đều được hiện tại hoá trong thánh lễ, và bằng việc rước lễ để nhờ kết hợp với Mình và Máu Đức Kitô, họ “trở thành một thân thể” trong Ngài[22].” Nghi thức hôn phối được bắt đầu sau bài Phúc âm và bài giảng, gồm ba phần: 1. Phần một: Thẩm vấn đôi tân hôn Chủ tế lần lượt hỏi cô dâu và chú rể ba câu hỏi về sự tự do, về việc yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời và về việc đón nhận con cái. Những câu hỏi này nhằm giúp đôi tân hôn chính thức xác nhận trước mặt mọi người rằng họ thực sự ý thức và trưởng thành khi quyết định kết hôn, nghĩa là có sự tự do để lấy nhau, chấp nhận ý nghĩa và mục đích của hôn nhân là yêu thương và chung thủy với nhau, sẵn sàng đón nhận và giáo dục con cái. 2. Phần hai: Trao đổi lời thề hứa Đây là phần chủ yếu của bí tích Hôn phối. Đôi tân hôn sẽ trao đổi lời thề hứa nhận nhau làm vợ làm chồng và cam kết trung thành với nhau suốt đời. 3. Phần ba: Làm phép và trao nhẫn cưới Chủ tế làm phép nhẫn, sau đó anh chị trao nhẫn cho nhau, như dấu chỉ của tình yêu và lòng trung thành. Tiếp đến, đôi tân hôn, hai người chứng và linh mục cùng ký tên vào Sổ Hôn phối. Sổ này được lưu trong văn khố của giáo xứ. Việc ký tên này cũng có thể được thực hiện sau thánh lễ. Nghi thức Hôn phối kết thúc. Thánh lễ tiếp tục. Sau kinh Lạy Cha có một lời nguyện đặc biệt cầu cho đôi tân hôn. Hội Thánh khẩn cầu Chúa ban đầy ân sủng và phúc lộc cho đôi tân hôn để bản thân họ được thánh thiện và hạnh phúc, gia đình họ được hòa thuận và bền vững. Hội Thánh cũng nguyện xin ơn Thánh Thần cho họ vì “Chúa Thánh Thần là dấu ấn hôn ước của họ, là nguồn mạch tình yêu của họ, là sức mạnh giúp họ chung thuỷ[23].” Các bài đọc Kinh Thánh được chọn riêng cho lễ Hôn phối xoay quanh ba ý chính: Đối với việc công bố Lời Chúa (đọc bài đọc 1 và 2), nên chọn trong số những người thân thuộc của đôi tân hôn, chẳng hạn như người làm chứng, anh chị em trong gia đình hoặc bè bạn. Lúc này, đôi tân hôn trước tiên phải là những người lắng nghe và đón nhận Lời Chúa đang công bố cho mình[24]. 4 GHI NHỚ : 1. H. Khi quyết định tiến tới hôn nhân, đôi bạn cần làm những thủ tục nào? T. Khi quyết định tiến tới hôn nhân, đôi bạn cần trình cha xứ để làm những việc này: 2. H. Về mặt dân sự, cần làm thủ tục nào? T. Về mặt dân sự, cần đăng ký kết hôn tại Uỷ ban Nhân Dân Phường hoặc Xã nơi cư ngụ. 3. H. Vì sao Hội Thánh buộc các tín hữu cử hành hôn phối theo nghi thức của Hội Thánh? T. Hội Thánh buộc các tín hữu cử hành hôn phối theo nghi thức của Hội Thánh vì bốn lý do này: 4. H. Nghi thức bí tích hôn phối gồm mấy phần? T. Nghi thức Bí tích Hôn phối gồm ba phần: 5. GỢI Ý SUY NGHĨ : 1. Xin anh chị đọc và chia sẻ với nhau lời thề hứa mà anh chị sẽ trao đổi với nhau: “Tôi là T., nhận anh (em) T. làm chồng (vợ), và hứa giữ lòng chung thủy với anh (em), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng anh (em) suốt đời tôi”. 2. Xin anh chị đọc lại lời cầu nguyện cho đôi tân hôn trong Thánh lễ (sau Kinh Lạy Cha). Hội Thánh cầu nguyện cho họ những gì? Anh chị sẽ cố gắng thực hiện những điều đó trong đời sống hôn nhân và gia đình của mình như thế nào? 6. CẦU NGUYỆN : Lạy Chúa, khi tạo dựng loài người có nam có nữ, Chúa đã muốn cho cả hai nên một. Xin Chúa thương tuôn đổ ơn phúc dồi dào trên các đôi vợ chồng, giúp họ sống trọn tình vẹn nghĩa với nhau và biết mở rộng tình yêu thương đến mọi người, để làm chứng cho tình yêu thương vô biên của Chúa. Amen. [1] x. Luật Hôn nhân và Gia đình điều 11-12 “Đây là ý muốn của Thiên Chúa, là anh em nên thánh: Hôn nhân là chuyện hệ trọng, liên quan đến hạnh phúc cả đời. Chính vì thế, để bước vào đời sống hôn nhân đôi bạn cần được chuẩn bị về nhiều mặt, để được thực sự tự do và chín chắn khi quyết định. Thời gian đính hôn chính là thời gian cần thiết giúp đôi bạn chuẩn bị cho mình một cuộc hôn nhân hạnh phúc. “Kinh nghiệm cho thấy rằng những bạn trẻ nào được chuẩn bị chu đáo cho đời sống hôn nhân và gia đình, cách chung, sẽ thành công hơn các bạn khác[1].” 1. Những giai đoạn chuẩn bị Việc chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân và gia đình cần được thực hiện theo một tiến trình tuần tự và liên tục, bao gồm ba giai đoạn chính: chuẩn bị xa, chuẩn bị gần và chuẩn bị liền trước bí tích[2]. 1.1. Chuẩn bị xa Việc chuẩn bị xa bắt đầu từ thời thơ ấu trong gia đình. Đây là giai đoạn hình thành nhân cách. Các em cần được giáo dục và đào tạo về mặt nhân bản để biết quý chuộng các giá trị nhân bản đích thực, biết làm chủ bản thân và tôn trọng người khác phái. Ngoài ra, cũng cần giúp các em hiểu hôn nhân là một ơn gọi và là một sứ mạng đích thực, để từ đó các em dần dần khám phá ra ơn gọi của mình: hoặc tận hiến cho Thiên Chúa trong đời sống tu trì hoặc hướng về cuộc sống hôn nhân và gia đình. 1.2. Chuẩn bị gần Việc chuẩn bị gần là một công cuộc lâu dài, bao gồm một chương trình giáo lý thích hợp. Người trẻ cần được đào sâu những vấn đề về tính dục, hôn nhân, bổn phận làm chồng, làm vợ, trách nhiệm giáo dục con cái, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để họ có được những yếu tố căn bản giúp xây dựng một cuộc sống gia đình ổn định. Ngoài ra, họ cũng cần học hỏi để biết làm việc tông đồ trong gia đình, sống tình huynh đệ, cộng tác với các gia đình khác, tích cực tham gia các nhóm, các hiệp hội, các phong trào và các sáng kiến có mục đích đem lại lợi ích cho các gia đình về mặt nhân bản cũng như về mặt đức tin. 1.3. Chuẩn bị liền trước bí tích Đôi bạn cần đào sâu về mầu nhiệm Đức Kitô và Hội Thánh, về ý nghĩa của ân sủng và trách nhiệm gắn liền với hôn nhân Kitô giáo, về ý nghĩa các thủ tục và các lễ nghi phụng vụ hôn phối. Việc chuẩn bị liền trước Bí tích Hôn phối này cần thiết cho mọi trường hợp, nhất là đối với những đôi bạn còn nhiều thiếu sót và khó khăn về mặt giáo lý và nếp sống đạo. 2. Đính hôn Đính hôn là kết thúc giai đoạn sơ khởi của gặp gỡ, quen biết, để đưa tình yêu lứa đôi lên một mức nghiêm túc hơn và hướng đến một quyết định quan trọng là thành hôn. Lễ đính hôn là một truyền thống văn hóa của nhiều dân tộc trên thế giới. Ở Việt Nam, thường có lễ dạm rồi đến đính hôn hay lễ ăn hỏi và sau cùng là lễ thành hôn hay lễ cưới. Tuy nhiên hiện nay nhiều nơi chỉ còn lễ hỏi và lễ cưới. Lễ đính hôn công khai hóa tình yêu của hai người với họ hàng đôi bên, bà con lối xóm và bạn bè thân hữu. Từ ngày đính hôn đôi bạn có tư cách chính thức để công khai gặp gỡ tìm hiểu nhau cũng như tìm hiểu gia đình của nhau. Sau lễ đính hai bên gia đình sẽ trình với cha xứ biết để ngài hướng dẫn đôi bạn về giáo lý hôn nhân cũng như chuẩn bị những thủ tục cần thiết cho việc cử hành bí tích hôn phối. 3. Tại sao cần phải có thời kỳ đính hôn? Thời gian đính hôn là thời gian chuẩn bị. Việc chuẩn bị này là điều quan trọng, giúp cho đôi bạn chín chắn và trưởng thành khi đưa ra lời cam kết, cũng như giúp cho hôn ước của đôi bạn có được nền tảng tự nhiên và siêu nhiên, vững chắc và lâu dài. Hội Thánh nhắc nhở những bậc có trách nhiệm: “Phải biết giáo dục thanh thiếu niên hợp thời và hợp cách về phẩm giá, phận sự và hành vi thể hiện tình yêu vợ chồng, nhất là trong chính khung cảnh gia đình; nhờ đó, một khi đã được rèn luyện để giữ đức khiết tịnh, đến tuổi thích hợp, họ có thể tiến tới hôn nhân sau khi đã sống đúng đắn giai đoạn đính hôn[3].” Thời gian đính hôn là thời gian quý báu giúp đôi bạn có thêm cơ hội thích hợp để tìm hiểu nhau và gia đình của nhau, chứng tỏ cho nhau về tình yêu của mình, và xem thử những tình cảm ban đầu có thể trở thành tình yêu vợ chồng suốt đời không. Thời gian đính hôn dài hay ngắn là tùy theo mức độ hiểu biết của đôi bạn về hôn nhân và gia đình, và tùy theo đôi bạn có tâm đầu ý hợp không. Nói chung, không nên vội vàng, hấp tấp; cũng không nên kéo dài quá lâu. 4. Sống thời kỳ đính hôn như thế nào? Để cuộc hôn nhân được tốt đẹp và hạnh phúc, việc quan trọng trước hết cần phải làm trong thời gian đính hôn là gia tăng cầu nguyện, lắng nghe ý Chúa, xin Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn để mình có thể tìm hiểu và chọn lựa đúng đắn. Cần học giáo lý hôn nhân để hiểu rõ về ý nghĩa, mục đích của bí tích hôn phối cũng như những đòi hỏi của bậc sống hôn nhân và gia đình. Đôi bạn cần tìm hiểu nhau và gia đình của nhau để xem có hợp với nhau hay không; đồng thời cần giúp nhau sửa đổi những thiếu sót, khuyết điểm trong tinh thần khiêm tốn và biết phục thiện. Đôi bạn cũng cần trao đổi với nhau về những vấn đề quan trọng, chẳng hạn vấn đề sinh sản và giáo dục con cái, công việc làm ăn, sử dụng tiền bạc, sống đạo, làm việc tông đồ... Bởi vì, sau khi kết hôn mà không nhất trí được với nhau về những vấn đề quan trọng, hoặc phát hiện ra những chuyện tình cảm của quá khứ bị giấu giếm, thì hạnh phúc có nguy cơ bị đổ vỡ. Đặc biệt đôi bạn cần chứng tỏ cho nhau một tình yêu chân thành, trong sáng và chung thủy. Trong thời gian thử thách này, họ phải biết tự chủ, tự trọng và tôn trọng lẫn nhau, tập chung thủy và hy vọng được đón nhận nhau như quà tặng của Thiên Chúa. Họ sẽ dành những hành động biểu lộ tình yêu vợ chồng cho thời gian sau ngày thành hôn. Họ phải giúp nhau sống khiết tịnh bằng một quyết tâm dứt khoát, can đảm từ chối mọi nhượng bộ dù rất nhỏ mọn và xa tránh những hoàn cảnh dễ đưa đến vấp ngã[4]. Món quà tuyệt vời nhất đôi bạn có thể dành cho nhau trong ngày cưới chính là giúp nhau giữ được sự trong trắng của thời kỳ đính hôn. Những phim ảnh và sách báo lệch lạc đã khiến nhiều bạn trẻ nghĩ rằng không thể giữ được sự khiết tịnh và dễ buông theo bản năng. Thế nhưng, nếu có can đảm tự chủ trong những điều nhỏ mọn, họ có thể vượt thắng cám dỗ. Cụ thể là họ cần phải làm chủ đôi mắt, xúc giác và trí tưởng tượng. Cách riêng, họ phải luôn sống trước nhan thánh Chúa trong tâm tình kính sợ, tin cậy và yêu mến. Tự sức riêng, họ thật yếu đuối nhưng Chúa luôn mạnh mẽ. Do đó, họ cần bám víu vào ơn Chúa bằng kinh nguyện. Nên nhớ rằng thời kỳ đính hôn là thời gian rất cần ơn Chúa để sự chuẩn bị mọi mặt được chu đáo. Từ đó, đôi bạn sẽ cố gắng hết sức để luôn giữ mình trong tình trạng đẹp lòng Chúa và được Ngài chúc phúc. Nếu lỡ sa ngã vì yếu đuối, họ cần mau mắn lãnh nhận bí tích tha thứ. Cả hai bên đều phải ý thức và giúp nhau đứng vững, vì hạnh phúc lâu bền của cả hai người. Thời kỳ đính hôn vừa giúp đôi bạn chuẩn bị bước vào cuộc sống mới vừa giúp họ suy nghĩ cân nhắc thật kỹ lưỡng trước sự quyết định quan trọng cho cả một đời. Bao lâu chưa cử hành bí tích Hôn phối, họ vẫn còn có thể chia tay trong bình an. 4 GHI NHỚ : 1. H. Tại sao phải có thời kỳ đính hôn? T. Phải có thời kỳ đính hôn: 2. H. Phải sống thời kỳ đính hôn như thế nào? T. Trong thời kỳ đính hôn, đôi bạn cần gia tăng cầu nguyện, tích cực học hỏi về đời sống hôn nhân và gia đình, chứng tỏ cho nhau một tình yêu chân thành, trong sạch và chung thủy. 5. GỢI Ý SUY NGHĨ : 1. Người Nga có câu: “Trước khi ra trận, hãy cầu nguyện một lần; trước khi xuống tàu, hãy cầu nguyện hai lần; trước khi kết hôn, hãy cầu nguyện ba lần.” Anh chị nghĩ gì về câu nói đó? 2. Ngày nay có khá nhiều cuộc hôn nhân bị đổ vỡ. Theo anh chị, đâu là những nguyên nhân chính? 3. Để yêu thương, không phải chỉ muốn là đủ, nhưng còn phải học cách yêu thương. Anh chị nghĩ gì về điều đó? 6. CẦU NGUYỆN : Lạy Chúa Thánh Thần, Chúa biết rõ tình yêu và thiện chí của chúng con. Chúng con đang sống thời kỳ đính hôn để chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân và gia đình. Chúng con rất cần được Chúa soi sáng và hướng dẫn, hầu biết tận dụng thời gian đính hôn này để học hỏi và tìm hiểu thật chu đáo; nhờ đó cuộc sống hôn nhân và gia đình của chúng con mai sau sẽ được thành công như ý Chúa muốn. Amen [1] GĐ 66 “Giờ đây, lạy Chúa, Chúa biết không phải vì dục tình Sara cũng nguyện rằng: Tình yêu vợ chồng mang tính cách một cam kết quyết liệt. Đôi bạn thời đính hôn cần hiểu rõ tình yêu này, để biết mình đang hướng đến điều gì và phải chuẩn bị tâm hồn nghiêm túc như thế nào? Thật vậy, trong tình yêu vợ chồng, “mình với ta tuy hai mà một”. “Một” ở đây muốn nói lên sự kết hợp mật thiết đến độ không chỉ dừng ở việc ý hợp tâm đầu, mà còn đón nhận và trao ban cho nhau trọn vẹn, trở thành một xương một thịt suốt đời. Trao ban trọn cả con người, đón nhận nhau trọn cả cuộc sống, để trở thành một xương một thịt suốt đời và từ đó làm nảy sinh những sự sống mới. Đây chính là đặc tính của tình yêu vợ chồng. 1. Đặc tính của tình yêu vợ chồng 1.1. Tình yêu kết hợp nên một Tình yêu vợ chồng trước hết hướng đến việc kết hợp nên một: “Người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình, và cả hai nên một thân thể” (St 2,24; Mt 19,5; Mc 10,8). Trước khi lấy nhau, họ là hai thế giới khác biệt với những vấn đề, những khát vọng, những niềm vui, nỗi buồn riêng tư. Giờ đây, khi đã lấy nhau, hai thế giới đó được hoà trộn vào nhau, thành một xương một thịt và một tâm hồn, chia sẻ một vận mệnh và một cuộc sống. Sự kết hợp đó sâu xa đến nỗi chỉ cái chết mới có thể chia lìa. Chính vì vậy, tình yêu hôn nhân đòi hỏi sự đơn nhất và bất khả phân ly[1]. 1.2. Tình yêu trao hiến trọn vẹn Nhờ khả năng tính dục, người nam và người nữ hiến thân cho nhau qua những hành vi ân ái dành riêng cho vợ chồng. Tính dục không chỉ là hành vi sinh lý, mà còn liên can đến những điều thâm sâu nhất của nhân vị. Những hành vi thực hiện sự kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng đều cao quý và chính đáng. Chúng biểu hiện và khích lệ sự hiến thân cho nhau, nhờ đó hai người làm cho nhau thêm phong phú trong hoan lạc và biết ơn. Sự trao hiến trọn vẹn toàn thể con người dẫn đôi bạn đến sự kết hợp mật thiết với nhau thành một trái tim, một tâm hồn, một cuộc sống. Nhờ sự kết hợp nên một và trao hiến trọn vẹn của vợ chồng, hai mục đích của hôn nhân được thực hiện: lợi ích của chính đôi vợ chồng và lưu truyền sự sống. 1.3. Tình yêu chung thủy Tình yêu hôn nhân đòi hỏi hai vợ chồng phải dứt khoát, không được tạm bợ, nghĩa là phải luôn chung thuỷ với nhau, bởi vì do giao ước hôn nhân, họ không còn là hai, nhưng đã trở thành một thân thể duy nhất. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vĩnh viễn không lay chuyển. Tình yêu vợ chồng được tham dự vào tình yêu này và được tình yêu này hướng dẫn và nâng đỡ. Nhờ chung thủy với nhau, vợ chồng trở thành chứng nhân cho tình yêu trung tín của Thiên Chúa[2]. 1.4. Tình yêu mở ngỏ cho sự sống Truyền sinh vừa là một ân huệ, vừa là một mục tiêu căn bản của hôn nhân, vì tự bản chất, tình yêu vợ chồng hướng tới việc sinh sản con cái. Con cái là hoa quả của tình yêu vợ chồng, hiện diện ngay trong việc vợ chồng hiến thân cho nhau, chứ không phải là một cái gì được thêm vào từ bên ngoài. Vì thế, mọi hành vi ân ái phải mở ngỏ cho việc truyền sinh. Hội Thánh đã nhắc đi nhắc lại điều này nhiều lần: hành vi ân ái luôn mang hai giá trị bất khả phân ly: kết hợp và truyền sinh. Đây là điều chính Thiên Chúa đã muốn và con người không được phá bỏ. Vì được mời gọi thông truyền sự sống, đôi vợ chồng tham dự vào quyền năng sáng tạo và tình phụ tử của Thiên Chúa.[3] Trong khi thi hành bổn phận truyền sinh và giáo dục, đôi vợ chồng biết rằng mình cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa và trở thành như những người diễn đạt tình yêu của Ngài. Do đó, họ sẽ chu toàn bổn phận trong tinh thần trách nhiệm của một con người và một Kitô hữu. Một khía cạnh đặc biệt của trách nhiệm, đó là điều hòa sinh sản. Khi có lý do chính đáng, đôi vợ chồng có quyền kéo dài khoảng cách giữa những lần sinh con. Chính họ phải chứng thực rằng ước muốn đó không do ích kỷ, nhưng xứng hợp với lòng quảng đại chính đáng của bậc làm cha làm mẹ có trách nhiệm. Ngoài ra, họ phải xử sự theo những tiêu chuẩn khách quan của luân lý. 2. Nhiệm vụ vợ chồng 2.1. Nhiệm vụ của người chồng Trong gia đình, cộng đoàn hiệp thông giữa các ngôi vị, người nam được mời gọi sống sự tự hiến của mình trong vai trò là chồng và là cha. Qua người vợ, người chồng nhìn thấy ý định của Thiên Chúa được thực hiện: “Đàn ông ở một mình không tốt, Ta hãy tạo dựng cho nó một nội trợ giống như nó” (St 2, 18). Người chồng sẽ có cùng một tiếng kêu hạnh phúc như Ađam, người chồng đầu tiên: “Bây giờ xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi” (St 2, 23). Tình nghĩa vợ chồng đòi buộc người chồng phải thực sự tôn trọng phẩm giá của người vợ, như thánh Ambrôxiô đã viết: “Con không phải là chủ của nàng, nhưng là chồng nàng; nàng được trao cho con để làm vợ chứ không phải để làm nô lệ... Hãy đáp lại những quan tâm nàng đã dành cho con, và hãy biết ơn tình yêu của nàng” (Exameron V, 7.19). Đối với vợ, người chồng phải trở nên người bạn đời. Hơn thế nữa, người chồng còn được mời gọi trở nên người bạn đạo bằng cách yêu thương vợ mình một cách tế nhị và mạnh mẽ như Đức Kitô đã yêu thương Hội Thánh Tình yêu đối với người vợ đã trở thành mẹ và tình yêu đối với con cái là con đường tự nhiên đưa người chồng đến chỗ hiểu biết và thể hiện tư cách làm cha của mình. Chỗ đứng và vai trò của người cha trong gia đình có một tầm quan trọng không ai có thể thay thế được. Sự vắng mặt của người cha thường gây ra những sự thiếu quân bình về tâm lý và tinh thần, cũng như nhiều khó khăn đáng kể khác trong những tương quan gia đình; nhưng ngược lại, cũng sẽ xảy ra như thế nếu sự hiện diện của người cha lại mang tính cách áp bức và độc đoán. Khi biểu lộ và sống tình cha của Thiên Chúa, người chồng được mời gọi đứng ra bảo đảm sự phát triển thống nhất của mọi thành phần trong gia đình. Để chu toàn sứ mạng này, người chồng cần phải quảng đại lãnh lấy trách nhiệm đối với sự sống đang được người vợ cưu mang, và cố gắng giáo dục con cái cùng với vợ mình; công việc ấy sẽ không bao giờ làm chia rẽ gia đình, nhưng làm cho gia đình được vững mạnh trong sự hiệp nhất và ổn định, trở nên một chứng tá về đời sống Kitô hữu trưởng thành, để con cái có được kinh nghiệm sống động về Đức Kitô và về Hội Thánh một cách hữu hiệu hơn[4]. 2.2. Nhiệm vụ của người vợ Trong gia đình, người nữ cũng được mời gọi sống sự tự hiến của mình trong vai trò là vợ và là mẹ. Trước hết cần khẳng định rằng người vợ bình đẳng với người chồng về phẩm giá cũng như về trách nhiệm. Sự bình đẳng này được thể hiện một cách đặc biệt trong sự hy sinh cho con cái. Một sự trao hiến như thế chỉ có trong hôn nhân và gia đình. Điều con người cảm nghiệm, cũng là điều được mặc khải đầy đủ trong Lời Chúa. Thật vậy, lịch sử cứu độ cho thấy phẩm giá của người phụ nữ luôn luôn được đề cao. Tuy nhiên, cho đến nay không thể phủ nhận rằng có nhiều người muốn thu hẹp phạm vi của người phụ nữ vào vai trò làm vợ và làm mẹ, không để cho họ bước ra ngoài xã hội, nắm giữ những trọng trách, vốn thường được coi như chỉ dành cho nam giới. Chắc chắn sự bình đẳng về phẩm giá và trách nhiệm giữa người nam và người nữ cho phép người nữ dấn thân vào các vai trò xã hội. Đàng khác, cũng cần phải nhìn nhận rằng vai trò làm mẹ và làm nội trợ của người phụ nữ có giá trị không thua kém so với những vai trò ngoài xã hội và những nghề nghiệp khác. Cần vượt qua não trạng cho rằng danh dự của phụ nữ là do việc làm ngoài xã hội hơn là do hoạt động trong gia đình. Nhưng để đạt được điều ấy, nam giới cần biết quý chuộng và thật sự yêu thương người phụ nữ với tất cả sự tôn trọng phẩm giá cá nhân củ [1] GLHT 2333 Bài 9. Hoà hợp vợ chồng: Sự khác biệt giữa nam và nữ “Anh em hãy hết lòng khiêm tốn, hiền hậu, nhẫn nại, Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ[1]. Tự bản chất, nam và nữ khác biệt nhau không chỉ về vóc dáng bên ngoài, mà còn về tâm tính, cũng như cách cảm nhận và hành động. Giới tính ảnh hưởng trên toàn bộ con người, đặc biệt liên quan đến đời sống tình cảm, khả năng yêu thương, truyền sinh, và một cách tổng quát hơn, liên quan đến năng lực thực hiện những quan hệ hiệp thông với người khác[2]. Mỗi người, nam cũng như nữ, phải nhận ra và chấp nhận giới tính của mình. Sự khác biệt và bổ sung cho nhau về thể xác, tinh thần và tâm linh hướng đến những lợi ích của hôn nhân và sự triển nở của gia đình. “Sự hòa hợp của đôi vợ chồng và của xã hội tùy thuộc một phần vào việc hai bên nam nữ bổ túc, đáp ứng và nâng đỡ nhau[3].” 1. Về thể xác - Nam có cơ bắp to, thích hợp cho lao động nặng; khi lao động thường tập trung sức mạnh, nhưng sau đó cần nghỉ ngơi. - Nữ có cơ bắp nhỏ hơn, thích hợp cho những công việc đòi hỏi bền dai; khi lao động thường ít tập trung sức mạnh, có thể làm liên tục hết việc này đến việc khác, có khả năng chịu đựng và tuổi thọ thường cao hơn. 2. Về nhận thức - Nam chú ý đến cái tổng quát, cốt yếu; lý luận theo nguyên tắc, phán đoán khách quan hơn, vì dựa trên sự kiện, coi việc làm quan trọng hơn lời nói. - Nữ chú ý đến mọi chi tiết, suy nghĩ bằng trực giác, phán đoán thường chủ quan hơn, vì dựa trên tình cảm, coi lời nói là quan trọng. 3. Về tình yêu - Nam coi tình yêu là một trong những điều quan trọng bên cạnh những điều quan trọng khác; khi yêu, nam chủ động, muốn chiếm đoạt, dễ bị kích động. - Nữ coi tình yêu là tất cả; khi yêu, nữ sẵn sàng dâng hiến; cảm xúc của nữ đến từ từ nhưng kéo dài. 4. Về tôn giáo và luân lý - Nam có lòng đạo kém sốt sắng, nhưng bền vững; khó giữ đức tiết độ và khiết tịnh. - Nữ có lòng đạo nồng nhiệt, tình cảm, thích hình thức, chi tiết, nhưng dễ thay đổi và lung lạc; khó giữ đức bác ái trong lời nói. 5. Về tâm lý Các nhà tâm lý thường tóm tắt những khác biệt về tâm lý giữa nam và nữ trong 5 định luật sau: 5.1. Luật ưu tiên: Nơi người nam thể xác ưu tiên. * Anh cần nhớ: Chị sống bằng tình cảm hơn lý luận. Chị cần sự quan tâm, bảo vệ và che chở của anh. Hãy đáp ứng bằng những lời nói dịu ngọt, tâm tình, những cử chỉ âu yếm. Hãy phát huy và theo đuổi những giá trị tinh thần. * Chị cần nhớ: Anh rất chú trọng đến thể xác, sắc đẹp và nét duyên dáng của chị. Hãy ăn mặc và trang điểm dễ thương. Hãy dọn những bữa ăn thật ngon và đúng giờ. 5.2. Luật phân cách: Nơi người nam trái tim có bốn ngăn. * Anh cần nhớ: Trái tim của chị chỉ có mình anh. Hãy coi chị là quan trọng nhất, và tỏ ra yêu chị nhất trên đời. Hãy quan tâm đến hạnh phúc gia đình như chị quan tâm. * Chị cần nhớ: Trái tim của anh có đến bốn ngăn : - Ngăn 1 : Dành cho chị. Anh rất yêu chị, yêu chị nhất trên đời. 5.3. Luật chi tiết: Người nam quan tâm đến điều cốt yếu. * Anh cần nhớ: Chị rất trân trọng những kỷ niệm nho nhỏ trong cuộc đời, chẳng hạn ngày sinh, bổn mạng, kỷ niệm ngày cưới... Những điều nhỏ mọn có thể khiến chị đau khổ hoặc hạnh phúc. Chị sống nhiều bằng trực giác. Hãy tỏ ra khéo léo và tế nhị đối với chị. * Chị cần nhớ: Giảm bớt những chi tiết làm anh bận tâm. Đừng cằn nhằn, hãy bỏ qua những quên sót nhỏ nhặt của anh. Hãy chăm lo trang sức tâm hồn bằng sự quảng đại, dịu dàng, vui vẻ. 5.4. Luật bất đồng cảm: Người nam phản ứng nhanh nhưng mau dứt. * Anh cần nhớ: Trong phạm vi tình cảm và sinh lý, chị xúc cảm chậm, nhưng kéo dài hơn anh. Hãy khéo léo và kiên nhẫn. * Chị cần nhớ: Anh xúc cảm nhanh và mạnh, nhưng mau dứt. Anh mau nóng, nhưng cũng mau nguội. Hãy tỏ ra dịu hiền, đừng đổ thêm dầu vào lửa. 5.5. Luật thính giác: Người nữ có lỗ tai to. * Anh cần nhớ: Đôi tai của chị gắn liền với trái tim, chị thích nghe và dễ tin. Hãy biết nói những lời âu yếm, khen tặng, nói những chuyện lặt vặt, vì đối với chị “yêu là cởi mở tâm hồn”. * Chị cần nhớ: Đừng để người khác dụ dỗ. Đừng quá dễ tin vào dư luận. Đừng càm ràm, than thở, trách móc. Hãy nói trong niềm vui. Hãy khéo léo gợi chuyện để anh “biết nói”. * * * Tình yêu chân thật là thấy rõ khiếm khuyết của người khác, nhưng vui vẻ đón nhận, đồng thời khám phá ra những ưu điểm của họ và khéo léo phát huy. Trong đời sống hôn nhân và gia đình, để tạo được sự hòa hợp trọn vẹn và vững bền, hai vợ chồng cần hiểu rõ những khác biệt của nhau, để có thể cảm thông, chia sẻ và nương tựa vào nhau trong sự kính trọng và yêu thương chân thành. Gần đây, người ta đã khám phá ra rằng càng sống chung với nhau lâu năm, trên khuôn mặt của đôi vợ chồng càng có những nét giống nhau. Thiết tưởng không riêng trên khuôn mặt, mà còn cả trong tâm hồn. Đó là thành quả của biết bao nhiêu cố gắng yêu thương, hoà hợp và tha thứ trong cuộc sống. Những cố gắng ấy luôn được Thiên Chúa chúc phúc: “Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18,19-20). 4 GHI NHỚ : 1. H. Giới tính là gì? T. Giới tính là tất cả những đặc điểm phân biệt người nam với người nữ. 2. H. Giới tính ảnh hưởng thế nào trên con người? T. Giới tính ảnh hưởng trên toàn bộ con người, đặc biệt đối với đời sống tình cảm, khả năng yêu thương và truyền sinh. 3. H. Về phương diện tổng quát, người nam và người nữ khác nhau thế nào? T. Người nam và người nữ khác nhau không chỉ về vóc dáng bên ngoài, mà còn khác nhau về tâm tính, cách nhận thức và hành động. 4. H. Về phương diện tâm lý, sự khác biệt giữa người nam và người nữ được diễn tả thế nào? T. Được diễn tả bằng năm định luật sau đây: 5. H. Vợ chồng phải làm thế nào để tạo sự hoà hợp? T. Để tạo sự hoà hợp, vợ chồng phải hiểu rõ những khác biệt của nhau, để cảm thông và nâng đỡ nhau trong cuộc sống. 5 GỢI Ý SUY NGHĨ : 1. Tình yêu là “thần dược” giúp cho hai người biến đổi để ngày càng hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, sự biến đổi quan trọng nhất vẫn là biến đổi chính mình. Đâu là những khuyết điểm của bản thân mà Anh chị thấy cần khắc phục để có thể đem lại hạnh phúc cho nhau? 2. Tình yêu không mù quáng: Thấy yếu đuối của người yêu và cố sức gánh vác; thấy khả năng của người yêu và tế nhị khơi dậy. Anh chị nghĩ gì về điều này? 3. Làm thế nào để những khi gặp thử thách bên ngoài, làm ăn thua lỗ, vợ chồng có thể trở thành nguồn an ủi cho nhau, ngồi bên nhau như những tri kỷ. Trong thời gian chuẩn bị này, anh chị nên suy nghĩ với nhau và tìm ra đáp số cho bài toán này. 6.CẦU NGUYỆN : Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con giới tính để chúng con có thể vận dụng mà gặp gỡ, yêu thương và hiệp thông với người khác. Xin giúp chúng con luôn ý thức rằng giới tính là một ân huệ Chúa ban, để chúng con biết làm chủ và sử dụng đúng theo ý Chúa muốn. Amen. [1] x. St 1,27 Bài 10. Hoà hợp vợ chồng :Triển nở trong tình yêu “Lòng mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, Với lời cam kết: “Anh (em) nhận em (anh) làm vợ (chồng) và hứa sẽ giữ lòng chung thuỷ với em (anh) khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khoẻ để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em)”, đôi bạn chính thức trở thành vợ chồng. Lời cam kết khép lại thời kỳ đính hôn, đồng thời mở ra cánh cửa cho cuộc sống hôn nhân và gia đình. Trong đời sống hôn nhân và gia đình, việc tiếp tục vun xới cho tình yêu lứa đôi là một việc rất quan trọng. Gia đình có được hạnh phúc hay không, chủ yếu là do hai vợ chồng có biết chăm sóc cho tình yêu thuở ban đầu, để tình yêu ấy dần dần trở thành ân sâu nghĩa nặng, không bao giờ tàn phai. Thế nhưng, làm sao để tình yêu dành cho nhau mỗi ngày một thêm triển nở? Làm sao để sống lời cam kết ngày thành hôn được thêm sâu xa hơn? Để tình nghĩa vợ chồng ngày càng thêm đậm đà và bền chặt, vợ chồng cần phải: 1. Tôn trọng nhau Trong ngày thành hôn, anh chị cầm tay nhau cam kết sẽ yêu thương và tôn trọng nhau không chỉ một năm, hai năm, năm năm, mà là “mọi ngày suốt đời”. Yêu thương và tôn trọng phải đi đôi với nhau. Vợ kính trọng chồng, chồng tôn trọng vợ. Cả hai quý mến, trân trọng nhau. Trước hết, trọng kính là phải nhìn nhận nhau. Vợ không phải là người hầu hoặc nô lệ của chồng, mà là người bạn đời. Nam và nữ khác biệt nhau, nhưng bình đẳng với nhau vì cả hai đều là hình ảnh Thiên Chúa, được tạo dựng để trở thành trợ tá của nhau, bổ túc cho nhau và hiệp thông với nhau. Tiếp đến, trọng kính là phải đón nhận nhau. Gia đình Nadarét được bắt đầu bằng sự đón nhận: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng sợ đón bà Maria vợ ông về...” (Mt 1,20). Không chỉ đón nhận những ưu điểm, mà còn cả những khuyết điểm, nghĩa làø đón nhận trọn vẹn con người của nhau với quá khứ, hiện tại, cũng như tương lai. Thuở mới quen nhau, anh chị đã khám phá ra rất nhiều cái đẹp của nhau, những cái làm cho nhau ngưỡng mộ, si mê. Khi bước vào cuộc sống gia đình, anh chị dần dần khám phá thêm nhiều điều khác. Những điều này có thể là “mặt trái” của nhau. Đón nhận nhau ở đây, trước hết là tôn trọng những khác biệt về cách suy nghĩ, cảm nhận... qua việc trao đổi, lắng nghe, để hiểu biết con người của nhau hơn, nhờ đó giúp nhau mỗi ngày một nên hoàn thiện. Sự tôn trọng được diễn tả qua cách cư xử, qua lời ăn tiếng nói hằng ngày. Không phải chỉ tôn trọng nhau trong lúc thành công, thịnh vượng và mạnh khoẻ, trái lại trong lúc gian nan, thất bại và bệnh tật lại cần phải tôn trọng và nâng đỡ nhau hơn nữa. Tránh nói với nhau bằng những lời lẽ tục tằn, thô lỗ, hoặc nói xấu nhau với người thứ ba. Ngược lại, biết dành cho nhau những lời nói nhẹ nhàng âu yếm, những cử chỉ trân trọng, lịch sự, lễ độ, “tương kính như tân”. 2. Hy sinh cho nhau “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Một trong những bằng chứng về tình yêu chân thật, đó là sự hy sinh, quên mình. Yêu nhau mà không chấp nhận hy sinh, gian khổ vì nhau và với nhau, thì chưa phải là yêu nhau thật sự. Trời có lúc nắng, lúc mưa. Cuộc đời mỗi người cũng vậy, có lúc thịnh lúc suy, có lúc vui lúc buồn, có lúc khỏe lúc đau. Tình yêu luôn đòi hỏi sự thuỷ chung. Nếu chỉ yêu nhau lúc thịnh vượng, may mắn, mạnh khoẻ, còn khi gặp gian nan khốn khó, rủi ro, thì lìa bỏ nhau, thử hỏi như vậy có phải là yêu nhau thành thật hay không? Khi thành thật yêu nhau, người ta phải chấp nhận thực tế đó. “Đi đâu, cho thiếp đi cùng, Ngược lại với sự quên mình là tính ích kỷ. Kẻ ích kỷ thường độc tài, độc đoán, chỉ nghĩ đến bản thân, chỉ biết đến quyền lợi của mình. Kẻ độc tài có thể bắt người khác vâng theo ý mình, nhưng không dễ làm người khác yêu mình. Hy sinh quên mình là vì hạnh phúc của vợ, của chồng, của con. Hy sinh trong những vấn đề cụ thể. Hạnh phúc gia đình được xây dựng bằng những điều nhỏ mọn, bằng những hi sinh liên lỉ hằng ngày của cả đôi bên, chẳng hạn như trong việc sử dụng tiền bạc, thời giờ, mua sắm, giải trí... Đừng chỉ quyết định theo sở thích riêng của mình, bất chấp sở thích của vợ hoặc chồng. Khi xảy ra những mâu thuẫn do bất đồng ý kiến, hy sinh có nghĩa là “một nhịn chín lành”. Dĩ nhiên có những điều không thể nhượng bộ, nhất là trong lãnh vực luân lý hay đạo đức. Chấp nhận làm điều xấu để làm vui lòng chồng hay vợ không phải là hy sinh quên mình, nhưng là đồng loã với cái xấu và càng làm hại người kia hơn. Hy sinh cũng có nghĩa là tha thứ. Nhân vô thập toàn. Thánh Phaolô dạy: “Như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau nếu người này có chuyện phải oán tráùch người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau”. (Cl 3,12-13) Sự hy sinh còn được biểu lộ qua việc quan tâm đến nhau, chăm sóc, lo lắng cho nhau, không quản ngại vất vả, gian khổ vì nhau, nhất là khi người bạn đời gặp thử thách, bệnh tật, khó khăn. Đây chính là lúc sống lời cam kết trung thành với nhau ngày thành hôn. 3. Đối thoại với nhau Đối thoại là yếu tố quan trọng giúp duy trì và củng cố hạnh phúc trong gia đình. Nhờ đối thoại, vợ chồng, cha mẹ và con cái hiểu nhau hơn, giảm bớt những bất đồng. Đối thoại là nói và nghe. Cần nói cho nhau biết những điều mình suy nghĩ và mong ước, đồng thời cần nghe những suy nghĩ và mong ướccủa người khác. Nghe không phải chỉ bằng đôi tai, mà còn bằng cả khối óc và con tim. Những chuyện quan trọng trong gia đình vợ chồng cần phải chia sẻ, bàn bạc cùng nhau. Cha ông ta có câu “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”. Làm việc gì cũng nên trao đổi và thống nhất trước khi hành động. Trong lúc bàn bạc, cần lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhau, không nên độc tài, độc đoán, áp đặt ý của mình. “Trong tất cả những gì có liên hệ đến đời sống chung trong gia đình, hai vợ chồng đều có nhiệm vụ và quyền lợi bằng nhau[1].” Nếu thường xuyên chia sẻ tâm tình với nhau, vợ chồng sẽ dễ dàng đi đến chỗ thống nhất trên các lãnh vực công ăn việc làm, tổ chức đời sống, giáo dục con cái, giải trí, giao tế bạn bè, đời sống đạo đức... Nhờ đó, sẽ hiểu nhau, tin tưởng nhau và gắn bó với nhau hơn. 4. Dành thời giờ cho nhau Yêu nhau, người ta luôn nghĩ đến nhau và muốn ở bên cạnh nhau. Tình yêu cần sự hiện diện. Nhiều cặp vợ chồng đã đi tới chỗ đổ vỡ vì thường phải sống xa nhau hoặc quá lo công ăn việc làm, không còn để ý gì đến nhau. Bởi vậy, vợ chồng cần ưu tiên dành thời giờ cho nhau, chuyện trò tâm sự với nhau, chia sẻ cho nhau những niềm vui, những nỗi buồn, nói lên những suy nghĩ, những ý định của mình trong cuộc sống, cũng như nâng đỡ, an ủi, khích lệ và cổ vũ lẫn nhau. 5. Nói với nhau những lời âu yếm Tình yêu hai vợ chồng dành cho nhau cần được khẳng định lại mỗi ngày qua những lời nói dịu dàng, những cử chỉ âu yếm. Những lời nói đó tuy đơn sơ, nhưng lại là hương thơm ướp đậm tình yêu. Đừng đợi đến lúc ái ân mới nói những lời yêu đương và mới tỏ những cử chỉ thân mật. Giữa vợ chồng có trăm ngàn cách để bày tỏ tình yêu: từ lời nói đơn giản nhất : “Anh yêu em” hay “em yêu anh”, đến những biểu lộ sự ân cần, lòng biết ơn, lời nói khuyến khích, xây dựng.... Bức tranh cổ truyền Việt Nam ghi lại những mẩu đối thoại âu yếm giữa hai vợ chồng: - Chàng ơi, trẩy sớm hay trưa? 6. Làm tròn bổn phận vợ chồng Thánh Phaolô khuyên các cặp vợ chồng: “Chồng hãy làm tròn bổn phận đối với vợ, và vợ đối với chồng cũng vậy. Vợ không có quyền trên thân xác mình, nhưng là chồng; cũng vậy, chồng không có quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ. Vợ chồng đừng từ chối nhau, trừ phi hai người đồng ý sống như vậy trong một thời gian, để chuyên lo cầu nguyện; rồi hai người lại ăn ở với nhau, kẻo vì hai người không tiết dục nổi mà Satan lợi dụng để cám dỗ” (1 Cr 7,3-5) Nên một trong thân xác là một trong những yếu tố nòng cốt của tình yêu vợ chồng. Vợ chồng luôn muốn nên một với nhau, chẳng những về tâm hồn mà cả về thể xác. Họ muốn trao hiến cho nhau, hòa tan trong nhau, để đem lại hạnh phúc cho nhau. Đừng làm cho việc chăn gối thành nhàm chán và nghèo nàn, nhưng cần làm cho nó nên mới mẻ và phong phú, để mỗi lần trao hiến cho nhau, cả hai đều cảm thấy thoải mái và hạnh phúc. Để được hoà hợp và hạnh phúc, vợ chồng cần phải học hỏi thêm về tâm sinh lý nam nữ qua các sách giáo dục hôn nhân và gia đình hoặc những tài liệu chuyên môn. 7. Cầu nguyện với nhau và cầu nguyện cho nhau Thiên Chúa là Tình yêu. Chính Ngài đã thiết lập hôn nhân và gia đình. Ngài luôn muốn đồng hành với hai vợ chồng để giúp họ yêu thương nhau và xây dựng cuộc sống hôn nhân và gia đình hạnh phúc như Ngài mời gọi họ. Đời sống cầu nguyện trong gia đình thật cần thiết, nhất là giữa hai vợ chồng với nhau. Vì thế, phải thường xuyên cầu nguyện với nhau và cầu nguyện cho nhau. “Đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18,20). Hạnh phúc của gia đình là có Chúa hiện diện trong nhà, chia sẻ mọi biến cố vui buồn. Ngài ở giữa như nút dây nối kết hai vợ chồng, giúp họ lắng nghe nhau, hiểu nhau, thuỷ chung với nhau và cùng nhau tiến bước, vượt qua mọi gian nan thử thách của cuộc sống. 4 GHI NHỚ : 1. H. Vợ chồng phải làm gì để tình yêu luôn được triển nở? T. Vợ chồng cần phải: 5. GỢI Ý SUY NGHĨ : 1. Chúa sinh ra người nam và người nữ khác biệt với nhau về nhiều mặt, và Chúa lại muốn họ sống chung với nhau. Theo ý kiến của anh chị tại sao lại thế? Và vì mục đích gì? 2. Đâu là yếu tố quan trọng nhất mà anh chị cần đặc biệt quan tâm để giúp cho tình yêu của anh chị được triển nở? 6. CẦU NGUYỆN : Lạy Chúa, qua bí tích Hôn phối Chúa đã kết hợp hai người nam và nữ thành một gia đình duy nhất và bền vững, một cộng đoàn của sự sống và tình yêu. Xin giúp chúng con, là những người đang được Chúa mời gọi bước vào cuộc sống hôn nhân và gia đình, biết luôn cố gắng thực thi thánh ý Chúa bằng cách từ bỏ ý riêng cùng với những đam mê, tính hư, tật xấu, để hợp tác với Chúa và với người bạn đời trong việc xây dựng gia đình ngày càng triển nở hơn trong tình yêu của Chúa. Amen. [1] x. GL 1135 Bài 11. Hoà hợp vợ chồng:Giải quyết những xung đột “Chúa Giêsu giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Cuộc sống không phải lúc nào cũng bằng phẳng, êm ả. Có những lúc trời quang mây tạnh, nhưng cũng có những lúc bão táp mưa sa. Cuộc sống gia đình cũng vậy. Có những lúc êm ấm hạnh phúc, nhưng cũng có những lúc bất hoà, cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt. Chính Thánh gia ngày xưa cũng đã trải qua những kinh nghiệm đó. Chẳng hạn trước khi về chung sống với nhau, thánh Giuse phát hiện Đức Maria có thai, mà bào thai đó lại không phải là của mình. Rồi khi lạc mất Chúa Giêsu trong lần hành hương lên đền thờ Giêrusalem, thánh Giuse và Đức Maria đã phải lo lắng chạy đôn chạy đáo đi tìm con ròng rã ba ngày... Dù vợ chồng có yêu nhau thắm thiết, thì nhiều lúc vẫn xảy ra những bất hoà. Những bất hoà đó có thể làm cho tình yêu bị sói mòn và có thể đưa đến những đổ vỡ tai hại. Tuy nhiên, nếu biết cách giải quyết, chúng sẽ là cơ hội giúp hai vợ chồng hiểu nhau hơn và tình yêu mỗi ngày một thêm triển nở. 1. Những nguyên nhân gây xung đột Những xung đột giữa vợ chồng xảy ra thường là do: Những xung đột trên có thể dẫn đến nhiều hậu quả tai hại: 2. Những nguyên tắc giúp giải quyết xung đột trong gia đình 2.1. Biện pháp ngăn ngừa: - Trước khi kết hôn, đôi bạn cần tìm hiểu nhau kỹ lưỡng để tránh những ảo tưởng về nhau. Mặt khác, hôn nhân cần có tình yêu thực sự, đừng biến hôn nhân thành một cuộc mua bán, đổi chác. - Đôi bạn cần học hỏi, trang bị những kiến thức nuôi dưỡng tình yêu và bàn hỏi với những người khôn ngoan có kinh nghiệm, để biết cách sống hoà hợp và giải quyết những bất hoà trong gia đình. - Đôi bạn cần sửa đổi những thói hư tật xấu và cố gắng mỗi ngày một nên hoàn thiện hơn. 2.2. Khi xảy ra xung đột: +Thái độ của mỗi người: - Tự chủ: Kìm hãm tính nóng nảy và tự ái. Tránh phản ứng vội vàng, làm cho tình hình thêm căng thẳng. - Có thiện chí muốn giải quyết: Vợ chồng tranh cãi là nhằm tìm ra điều tốt hơn để đi đến chỗ hợp nhất, chứ không phải để ăn thua nhau hoặc để hạ nhục nhau, đi đến chia rẽ xa cách nhau. Trong cuộc tranh cãi, đừng vì tự ái mà trở nên cố chấp khư khư bảo vệ sai lầm của mình. + Phương cách giải quyết: - Đối thoại: . Biết trình bày và lắng nghe nhau. Đừng bắt người khác phải tuyệt đối tuân theo ý riêng của mình, nhưng biết lắng nghe và tìm hiểu ý kiến, quan điểm của người kia. . Nhắm mục tiêu chính: Giới hạn chuyện nào vào chuyện đó, không nhắc lại chuyện cũ, không “bới lông tìm vết”. - Chấp nhận khuyết điểm của mình: Can đảm nhận ra những lỗi lầm, sai phạm của mình để cố gắng sửa đổi. - Hàn gắn, làm lành: Sau khi tranh cãi, xung đột với nhau, vợ chồng cần tìm cách làm hòa ngay. Đừng để bầu khí lạnh lùng hờn giận kéo dài, chỉ gây thêm đau khổ cho mọi người và cho chính mình. - Nhờ trung gian hoà giải. Cần chọn người có uy tín, biết phân xử hợp tình hợp lý, hiểu cả hai bên để đưa ra lời khuyên bảo chân tình giúp hai người chấm dứtmâu thuẫn. - Cầu nguyện. Nếu hai vợ chồng biết cầu nguyện chung với nhau, chắc chắn họ sẽ có được sự bình tĩnh để ngồi thảo luận ôn hoà với nhau, đồng thời sẽ dễ nhận ra được ý muốn của Chúa đối với vấn đề đang tranh cãi. Giải quyết những xung đột trong gia đình là một công việc khó khăn, đòi hỏi sự cố gắng và thiện chí của cả hai. Nếu khi mới bước vào cuộc sống hôn nhân và gia đình, hai vợ chồng tập thói quen ngồi lại với nhau để giải quyết các vấn đề nho nhỏ thì sau này sẽ có nhiều kinh nghiệm để giải quyết những vấn đề to lớn hơn. Những dịp như thế sẽ giúp hai vợ chồng hiểu nhau hơn, đồng thời cũng giúp mỗi người gọt giũa cái “tôi” nhiều tự ái và vị kỷ, hầu cuộc sống gia đình được hài hòa, êm ấm và hạnh phúc. 4 GHI NHỚ : 1. H. Vợ chồng cần có thái độ nào khi xảy ra xung đột? T. Vợ chồng cần giữ những nguyên tắc này : 5. SUY NGHĨ: 1. Khi xảy ra những bất đồng trong gia đình, trước tiên anh chị sẽ có thái độ nào? Ai trong anh chị sẽ là người đi bước trước để ngồi lại với nhau? 2. Khi xảy ra xung đột, anh chị sẽ đến với ai để nhờ làm trung gian hoà giải? Trung gian đó phải là người như thế nào? 3. Việc cầu nguyện đem lại gì cho tình yêu của anh chị? Anh chị có kinh nghiệm gì về việc cầu nguyện khi gặp những chuyện trục trặc với nhau? 6. CẦU NGUYỆN: KINH HOÀ BÌNH CỦA THÁNH PHANXICÔ Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Để con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng. Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu. Lạy Chúa, xin hãy dạy con: tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần Linh thánh ái, xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí, ơn an bình. “Còn những ai đã kết hôn, Trong Tông huấn về Gia Đình, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói: “Ý định của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình liên hệ đến người nam và người nữ trong đời sống cụ thể hằng ngày của họ... Vì thế, nhằm chu toàn viêc phục vụ của mình, Hội Thánh tìm cách để biết được những hoàn cảnh trong đó hôn nhân và gia đình đang sống[1].” Qua những lời trên, ngài nói đến những hoàn cảnh thuận lợi cho hạnh phúc gia đình, cũng như những tình huống xói mòn và làm cho gia đình tan vỡõ. Như người mẹ đối với con cái, Hội Thánh phấn khởi, khi thấy các gia đình được yên vui hạnh phúc, đồng thời cũng không ngớt âu lo, khi thấy những gia đình vợ chồng ly tán. Ngay cả những gia đình đã hay sắp tan vỡ, Hội Thánh cũng tìm cách hàn gắn, cứu chữa hay ít nhất tìm cách tạo cho họ một nếp sống phù hợp với luật Chúa để có được hạnh phúc. Trong bài này, dựa trên giáo luật, chúng ta sẽ bàn về những gia đình phân ly: 1. Những trường hợp Hội Thánh có thể tháo gỡ dây hôn phối Bài 14. Linh đạo hôn nhân và gia đình “Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh” (1 Tx 4, 3). Trong ngày thành hôn, đôi tân hôn nào cũng được cầu chúc: “Trăm năm hạnh phúc”. Một gia đình hạnh phúc, theo truyền thống văn hoá Việt Nam, là một gia đình “trên thuận dưới hoà, con cái hiếu thảo, vợ chồng yêu thương nhau”. Tuy nhiên, đối với người Kitô hữu, một gia đình hạnh phúc còn phải là một gia đình có Chúa Giêsu ở cùng, bởi vì Ngài chính là tình yêu nối kết tất cả gia đình. “Ơn Đức Giêsu Kitô ban khi cử hành bí tích Hôn phối không bị múc cạn, nhưng vẫn theo sát đôi bạn trong suốt cả đời sống. Công đồng Vaticanô II nhắc lại điều ấy khi nói rằng Đức Giêsu Kitô “còn ở lại với họ để hai vợ chồng cũng mãi mãi trung thành yêu thương nhau bằng sự tự hiến cho nhau như Ngài đã yêu thương Hội Thánh và đã nộp mình vì Hội Thánh...” Khi chu toàn sứ mạng hôn nhân và gia đình của họ với sức mạnh của bí tích này, họ được đổ tràn tinh thần của Đức Kitô, nhờ đó tất cả đời sống của họ thấm nhuần đức tin, đức cậy, đức mến và càng ngày họ càng tiến tới sự trọn lành riêng biệt của họ và sự thánh hoá lẫn nhau; và bởi đó, họ cùng nhau góp phần tôn vinh Thiên Chúa[1]“. Như vậy, nhờ Bí tích Hôn phối, đôi vợ chồng Kitô hữu nhận được những ơn riêng để sống ơn gọi hôn nhân và gia đình. Những ơn đó giúp họ cùng nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc, đồng thời cũng giúp họ nên thánh trong đời sống hôn nhân và gia đình. 1. Mọi Kitô hữu được mời gọi nên thánh 1.1. Bổn phận nên thánh Khi chịu phép Rửa tội, người tín hữu không những được rửa sạch mọi tội lỗi mà còn trở nên “một thụ tạo mới” (2 Cr 5,17), thành nghĩa tử của Thiên Chúa (x. Gl 4,5-7), “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4), thành chi thể Đức Kitô (x. 1 Cr 6,15; 12,27) và thành đền thờ Chúa Thánh Thần (x. 1 Cr 6,19)[2]. Nói cách khác, nhờ phép Rửa, người Kitô hữu đã chết đối với tội lỗi để sống một cuộc sống mới. Đó là cuộc sống làm con cái Chúa Cha trong Chúa Giêsu Kitô[3], dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần[4]. Bởi vậy, mọi Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (1 Pr 1,15-16). Việc nên thánh không phải chỉ dành riêng cho các linh mục và tu sĩ mà còn dành cho mọi tín hữu. Thánh Phanxicô Salêsiô nói: “Mọi giáo dân đều được mời gọi nên thánh và họ có thể nên thánh như là chồng, là vợ, như là nông dân, là công nhân, là lính, là thương gia, y sĩ, thầy giáo, nghĩa là theo đủ mọi ngành nghề và hoàn cảnh trong xã hội”. Công đồng Vaticanô II nhắc lại: “Tất cả các Kitô hữu, bất kể thuộc bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô giáo và đến sự trọn lành của Đức Ái[5]“. “Đạt tới viên mãn của đời sống Kitô giáo và sự trọn lành của Đức Ái”, đó chính là nên thánh[6]. 1.2. Linh đạo: con đường nên thánh Trong Hội Thánh, có nhiều bậc sống khác nhau, nên cũng có nhiều con đường nên thánh khác nhau tuỳ theo mỗi bậc sống. Linh mục, tu sĩ có cách nên thánh của linh mục, tu sĩ. Giáo dân cũng có cách nên thánh riêng của mình. Con đường nên thánh dành cho mỗi bậc sống như vậy được gọi là linh đạo. Con đường này do Chúa Thánh Thần khơi dậy, để giúp người tín hữu bước theo Đức Kitô và đạt tới đức ái trọn hảo theo bậc sống của mình. Từ xưa cho tới nay, Chúa Thánh Thần đã khơi dậy rất nhiều linh đạo khác nhau trong Hội Thánh. Chẳng hạn linh đạo Augustinô, linh đạo Bênêđictô, linh đạo Camêlô, linh đạo Phanxicô, linh đạo Đaminh, linh đạo Inhaxiô, linh đạo Anphongxô, linh đạo Salêdiêng... Tất cả tạo nên sự phong phú và đa dạng trong Hội Thánh, để giúp cho từng người tìm được con đường nên thánh phù hợp với khả năng, hoàn cảnh và bậc sống của mình. 2. Linh đạo Hôn nhân và Gia đình Đối với các đôi vợ chồng, Công đồng Vaticanô II nói: “Nhờ sức thiêng của bí tích Hôn phối, các đôi vợ chồng Kitô hữu biểu hiện và tham dự vào mầu nhiệm hiệp nhất và tình yêu phong phú giữa Đức Kitô và Hội Thánh[7]; họ giúp nhau nên thánh trong đời sống hôn nhân, trong việc đón nhận và giáo dục con cái; nhờ đó, họ nhận được những ơn riêng cho bậc sống của mình trong Dân Chúa. Được ban cho những phương tiện cứu rỗi dồi dào như thế, mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào cũng, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha là Đấng trọn lành, tuỳ theo con đường của mỗi người[8]. Trong Tông huấn Gia đình, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhắc lại: “Ơn gọi mọi người nên thánh cũng được ngỏ với các vợ chồng và cha mẹ Kitô hữu. Đối với họ, ơn gọi này được nêu bật trong việc cử hành bí tích Hôn phối và được thực hiện cách cụ thể trong thực tế riêng của cuộc sống hôn nhân và gia đình. Chính cuộc sống này làm nẩy sinh ra ân sủng và đòi hỏi phải có một linh đạo đích thực và sâu xa cho đời sống hôn nhân và gia đình. Linh đạo này được gợi hứng từ các chủ đề về sáng tạo, giao ước, thập giá, phục sinh và dấu hiệu bí tích[9]“. Nếu linh đạo hôn nhân và gia đình cốt tại Tình yêu, “yêu như Thiên Chúa yêu” và được gọi hứng từ các chủ đề về Sáng tạo, Giao ước, Thập giá, Phục sinh và dấu hiệu bí tích, ta có thể diễn tả những nét chính của linh đạo hôn nhân và gia đình như sau: 2.1. Tình yêu sáng tạo Vì yêu thương, Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ và muốn cho con người được làm con của Ngài, sống hạnh phúc với Ngài mãi mãi[10]. Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ, để yêu thương, chia sẻ, bổ túc nhau, đồng thời làm chủ những gì Chúa đã dựng nên. Vì thế, Ngài đã truyền cho họ: “Hãy sinh sản cho đầy mặt đất”(St 1,28). Qua bí tích Hôn phối, đôi bạn được mời gọi cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa bằng viẹâc sẵn sàng đón nhận con cái và giáo dục chúng nên người, tạo nên một tổ ấm phục vụ cho sự sống. Mỗi lần trao cho nhau những hành vi âu yếm, mở ngỏ cho sự sống, đôi bạn ý thức mình đang cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa và nên thánh trong chính trong chính nếp sống đó. Khi chiêm ngắm tình yêu dịu dàng Thiên Chúa dành cho dân Israel, đôi vợ chồng biết luôn đổi mới tình yêu của mình qua những cử chỉ, lời nói, việc làm để đem lại hạnh phúc cho nhau và cho con cái. Trong việc giáo dục, cha mẹ ý thức mình là những người cộng tác của Thiên Chúa, nhờ đó không ngã lòng hoặc buông xuôi trước những đứa con bướng bỉnh, ngược lại, biết cậy trông vào ơn Chúa để luôn nhẫn nại, kiên trì, và yêu thương. 2.2. Tình yêu Giao ước Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với dân Israel và ban cho họ Mười điều răn để hướng dẫn họ sống trung thành với giao ước. Ngài mời gọi họ: “Nếu các ngươi thực sự nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng của Ta. Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế, một dân thánh” (Xh 19,5-6). Thiên Chúa luôn trung thành với giao ước. Dù dân Israel bất trung, bội phản, Thiên Chúa vẫn một mực trung tín, xót thương và tha thứ. “Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay, tình nghĩa của Ta đối với người vẫn không thay đổi” (Is 54,10). “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31,3). Khi cử hành bí tích Hôn phối, đôi bạn trao đổi với nhau lời thề hứa sẽ yêu thương và trung chuỷ với nhau suốt đời: “Tôi là.... nhận (anh / em) làm (chồng / vợ) và hứa giữ lòng chung thuỷ với (anh / em), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khoẻ, để yêu thương và tôn trọng (anh / em) suốt đời tôi”. Ơn bí tích Hôn phối giúp hai vợ chồng nên thánh trong việc sống lời cam kết trên mỗi ngày một trọn vẹn hơn. Khi nỗ lực sống yêu thương và trung thành với nhau, đôi vợ chồng phản ánh tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, cũng như tình yêu của Đức Kitô đối với Hội Thánh. Đó là một tình yêu son sắt không đổi thay. Tình yêu đó tạo nên sự hiệp thông thâm sâu giữa vợ chồng với nhau, cũng như giữa cha mẹ và con cái, phản ánh mầu nhiệm hiệp thông trong Hội Thánh. Thư Mục vụ HĐGM VN năm 1992 cũng viết: “Sống Phúc Âm trong đời sống gia đình chính là sống tình yêu chung thuỷ mà con người đời nào cũng khát khao ca tụng và đã được Chúa Giêsu củng cố bằng bí tích Hôn phối. Chính Chúa Giêsu còn dựa vào sách Sáng thế để tái lập quyền bình đẳng nam nữ và tinh thần bất khả phân ly của hôn nhân (St 2,18-24; Mt 19,6). Trong một xã hội mà đời sống gia đình đang bị đe dọa bởi nạn ly dị và những lối sống trái với luân lý đạo đức Việt Nam, sự trung thành giữa vợ chồng Kitô hữu sẽ là một ánh lửa soi sáng và sưởi ấm, một sự khuyến khích cho các gia đình khác”. 2.3. Tình yêu Thập giá Trong bữa Tiệc ly, Chúa Giêsu nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15,13. Ngài đã dùng cái chết trên thập giá để minh chứng Tình yêu của Thiên Chúa và để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại. Con đường thập giá là con đường tình yêu, chấp nhận đau khổ để xoá bỏ tội lỗi và mang lại hạnh phúc cho người mình yêu. Thánh Phaolô đã khuyên nhủ các người làm chồng hãy nhìn vào gương Đức Kitô: “Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh..., để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5,25.27) Đời sống hôn nhân và gia đình có rất nhiều thập giá: những khuyết điểm và tính xấu của nhau, những va chạm và xung khắc, những thất bại và rủi ro, những khi gặp tai ương và bệnh hoạn, cảnh hiếm muộn cũng như việc chấp nhận từ bỏ ý riêng để sống theo giáo huấn Hội Thánh về việc sinh sản có trách nhiệm v.v.... Đó là những thập giá cần được đón nhận với tình yêu. “Đời sống Kitô hữu mà không qua thập giá thì không thể đạt tới sự phục sinh. Như thế phải hiểu rằng không thể loại bỏ sự hy sinh trong đời sống gia đình, nhưng trái lại phải sẵn sàng đón nhận nó để tình yêu vợ chồng thêm sâu lắng và trở thành nguồn vui thân mật”[11]. Trong đời sống hôn nhân và gia đình, đôi bạn được mời gọi ngước nhìn lên thập giá Đức Kitô để học yêu thương, sống hi sinh, đón nhận nhau và tha thứ cho nhau. “Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13). Chính khi chấp nhận đi theo “con đường hẹp”, từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà bước theo Đức Kitô, đôi vợ chồng cộng tác vào công trình cứu độ cho mình và cho mọi người trong gia đình. 2.4. Tình yêu Phục sinh Đức Kitô phục sinh đã ra khỏi mồ. Ngài đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, mang lại sự sống mới cho nhân loại cùng giao hoà tội nhân với Chúa Cha. Trong đời sống hôn nhân và gia đình, mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh mời gọi đôi bạn luôn canh tân tình yêu của mình, không để những ích kỷ, ghen tương len lỏi vào tình yêu đôi lứa. Phương thế để canh tân tình yêu, chính là siêng năng đọc Lời Chúa, cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích, học biết thêm những kiến thức mới trong sách vở, báo chí để nuôi dưỡng tình yêu gia đình. Ngoài ra, gia đình Kitô hữu còn có sứ mạng truyền giáo, rao giảng Tin Mừng[12]. Gia đình phải cởi mở đón nhận Lời Chúa, rồi loan báo cho mọi người. Việc làm chứng và truyền giáo trước hết là trong chính gia đình: cha mẹ loan báo Tin Mừng cho con cái bằng những lời dạy dỗ và nhất là bằng gương sáng. Ngược lại, con cái cũng có bổn phận góp phần làm cho cha mẹ nên thánh. Thư chung của Hội Đồng Giám Mục VN năm 1980 cũng nói: “Gia đình của anh chị phải trở nên như một trường học về đức tin, một nơi để cầu nguyện. Một môi trường sống bác ái yêu thương và rèn luyện tinh thần tông đồ để làm chứng cho Chúa”. Gia đình Kitô hữu làm tông đồ bằng “chứng tá”. “Phải chứng minh rằng các con được gọi nên thánh và các con có thể sống một đời hôn nhân đẹp lòng Chúa. Các con chia sẻ với các gia đình khác: ân sủng, hạnh phúc, Chúa đã ban cho gia đình các con. Nhìn vào gia đình các con, thiên hạ phải đặt câu hỏi: “Tại sao họ có thể sống hiệp nhất, yêu thương, trung thành với nhau như thế?[13]“ 2.5. Tình yêu Bí tích Nhờ bí tích Hôn phối, gia đình Kitô hữu trở thành bí tích của Thiên Chúa. Bí tích là một dấu chỉ hữu hình giúp người ta thấy được một điều vô hình. Gia đình là Bí tích, vì gia đình có thể giúp người ta nhận ra tình yêu Thiên Chúa. “Cũng như tất cả mọi bí tích đều “có mục đích thánh hoá con người, xây dựng Thân Thể Đức Kitô và thờ phượng Thiên Chúa[14]“, Bí tích Hôn phối tự nó cũng là một hành vi phụng vụ để tôn vinh Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô và trong Hội Thánh. Khi cử hành bí tích ấy, đôi bạn Kitô hữu bày tỏ lòng biết ơn của họ đối với Thiên Chúa vì ơn huệ cao cả Ngài đã ban cho họ, để trong cuộc sống hôn nhân và gia đình, họ có thể sống lại chính tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người và tình yêu của Đức Kitô đối với Hội Thánh là hiền thê của Ngài[15]“. Như vậy, qua bí tích Hôn phối, đôi vợ chồng Kitô hữu vừa là biểu hiệu mầu nhiệm của sự kết hợp và của tình yêu phong phú giữa Đức Kitô và Hội thánh, vừa tham dự vào mầu nhiệm này. Việc vợ chồng con cái yêu thương nhau là do Thiên Chúa nâng đỡ, nhưng đồng thời cũng cho thấy tình yêu Thiên Chúa và diễn tả tình yêu của Ngài. Dấu chỉ Bí tích hôn phối được thể hiện qua lời cam kết trung thành yêu thương nhau và tôn trọng nhau suốt đời, qua việc trao cho nhau chiếc nhẫn cưới làm biểu hiệu tình yêu và lòng chung thuỷ. Chiếc nhẫn nhắc nhở cho đôi bạn những lời họ đã cam kết, để họ luôn nỗ lực sống tín trung và tôn trọng nhau “mọi ngày suốt đời”. Tuy nhiên, để có thể diễn tả một cách trung thành tình yêu của Thiên Chúa, “yêu thương như Đức Kitô yêu thương Hội Thánh”, gia đình Kitô hữu cần phải có ơn Chúa. Con đường nên thánh trong đời sống hôn nhân và gia đình phải là con đường đối thoại với Thiên Chúa qua việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các bí tích. “Do bí tích Hôn phối, đôi bạn nhận được sự thánh thiện và hằng ngày có nghĩa vụ phải sống sự thánh thiện đã nhận được. Cũng do bí tích ấy, họ nhận được ơn và có nghĩa vụ luân lý phải biến đổi toàn thể đời sống mình thành một hy lễ thiêng liêng dâng lên Thiên Chúa. Như thế, giáo dân cung hiến cho Thiên Chúa chính thế giới này, nhờ biết phụng thờ Ngài khắp nơi bằng đời sống thánh thiện của mình[16]“ 3. Noi gương Thánh Gia Thánh Giuse và Đức Maria là đôi vợ chồng thánh thiện, đã nêu gương cho các đôi vợ chồng Kitô hữu. Sở dĩ gọi là Thánh Gia, chính vì gia đình của Giuse - Maria gồm những con người thánh, đặc biệt có Chúa Giêsu là Đấng Thánh ở cùng. Con đường nên thánh trong yêu thương và chu toàn bổn phận gia đình chính là con đường mà Thánh Gia ngày xưa đã đi qua. Mỗi gia đình Kitô hữu ngày nay cũng được mời gọi noi gương Thánh Gia để trở thành những thánh gia khác. Đó là những cộng đồng yêu thương và hiệp nhất, mà khuôn mẫu là sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự hiệp thông này không khép kín nhưng mở ra với các gia đình khác và nhất là vươn lên tới chính Thiên Chúa Tình yêu. Khi nhìn vào gương Thánh Gia, gia đình Kitô hữu cũng được mời gọi phát triển lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria: “Khi được diễn tả bằng các tương quan chân thành với Đức Trinh Nữ và bằng việc noi theo đời sống thiêng liêng của ngài, lòng tôn sùng Đức Mẹ đích thực là một phương tiện đặc biệt để nuôi dưỡng sự hiệp thông tình yêu trong gia đình và để phát triển linh đạo hôn nhân và gia đình. Mẹ của Đức Kitô và của Hội Thánh, một cách đặc biệt cũng là Mẹ của các gia đình Kitô hữu là những Hội Thánh tại gia[17]“. 4 GHI NHỚ : 1. H. Nên thánh là gì? T. Nên thánh là “sống hoàn thiện như Cha trên trời”, trở nên giống Đức Kitô bằng cách sống yêu thương và chu toàn bổn phận. 2. H. Những ai trong Hội Thánh được mời gọi nên thánh? T. Mọi Kitô hữu đều có bổn phận nên thánh trong bậc sống của mình. 3. H. Linh đạo hôn nhân và gia đình là gì? T. Linh đạo hôn nhân và gia đình là con đường nên thánh dành cho những người sống bậc hôn nhân và gia đình. 4. H. Linh đạo hôn nhân và gia đình hệ tại ở điểm nào? T. Linh đạo Hôn nhân và gia đình hệ tại ở Tình Yêu, lấy Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người và Tình yêu của Đức Kitô đối với Hội Thánh làm khuôn mẫu. 5. H. Linh đạo hôn nhân và gia đình được gợi hứng từ đâu? T. Theo Tông huấn Gia đình, “Linh đạo hôn nhân và gia đình phải được gợi hứng từ các chủ đề về Sáng tạo, Giao ước, Thập giá, Phục sinh và dấu hiệu bí tích. 6. H. Để thực hành linh đạo hôn nhân và gia đình, đôi vợ chồng cần sống thế nào? 5. GỢI Ý SUY NGHĨ : 1. Một người vợ tâm sự: “Từ khi hiểu biết Chúa Giêsu nhiều hơn và tình yêu của Ngài bắt đầu thấm sâu vào đời con, đã có một sự thay đổi rất lớn trong quan hệ của con với chồng. Có thể nói con như yêu anh ấy một lần nữa sau 15 năm kết bạn với nhau. Mọi ước mơ trong lòng và mọi khát vọng thiêng liêng của con đã đơm bông kết trái”. Anh chị nghĩ thế nào về điều này? 2. Theo anh chị, con đường nên thánh trong gia đình có phải là con đường giúp cho gia đình anh chị đạt được hạnh phúc không? Đâu là yếu tố nòng cốt làm cho gia đình được hạnh phúc? 3. Nhìn vào gương Thánh Gia, anh chị học được điều gì cho gia đình mình? 6. CẦU NGUYỆN : Lạy Chúa, Chúa đã muốn chúng con làm thành một gia đình Công giáo, một cộng đoàn yêu thương, để trở nên dấu chỉ tình thương của Chúa giữa lòng cuộc đời. Xin cho mọi người trong gia đình chúng con sốt sắng thờ phượng, kính mến Chúa và hết lòng hoà thuận thương yêu nhau. Xin cho chúng con nhiệt thành sống đức tin, hôm sớm cầu nguyện chung với nhau làm cho gia đình trở thành một đền thờ sống động của Chúa, siêng năng tham dự phụng vụ, chuyên cần học hỏi Lời Chúa và đem ra thực hành. Trong lúc gia đình chúng con vất vả làm việc, gặp vui mừng hay thử thách, xin cho chúng con biết luôn luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa. Đối với những gia đình chung quanh, xin cho chúng con biết thật lòng yêu mến, sẵn sàng chia sẻ vật chất cũng như tinh thần, nhất là chia sẻ Tin mừng tình thương của Chúa cho họ. Lạy Chúa, chúng con xin dâng gia đình chúng con cho Chúa, chúng con nguyện sống theo gương Thánh Gia mỗi ngày. Xin chúc lành cho mỗi người trong gia đình chúng con, có mặt cũng như vắng mặt, còn sống hay đã qua đời, hầu bây giờ chúng con trở nên ánh sáng tình thương của Chúa, và ngày sau được sum họp với nhau bên Chúa muôn đời. Amen. [1] GĐ 56 Bài 15. Các bí tích trong đời sống Hôn nhân và gia đình “Các tín hữu chuyên cần tham dự những buổi giáo lý của các tông đồ, Đức Kitô đã để lại cho Hội Thánh những bí tích, là những dấu chỉ hữu hình diễn tả và đem lại ơn thánh cho các tín hữu. Các bí tích có mục đích thánh hoá con người, xây dựng thân thể Đức Kitô và thờ phượng Thiên Chúa[1]. Bảy Bí tích liên quan đến các giai đoạn và các thời điểm quan trọng của đời sống người Kitô hữu: Bí tích sinh ra (Rửa tội), lớn lên (Thêm sức, Thánh Thể), chữa lành (Hoà giải, Xức dầu) và lãnh nhận sứ mạng xây dựng cộng đoàn (Truyền chức, Hôn phối). Nhờ lãnh nhận các bí tích, đời sống Kitô hữu được nuôi dưỡng và mỗi ngày một tăng trưởng hơn. 1. Hôn phối và Rửa tội Nhờ bí tích Rửa tội, người Kitô hữu được tái sinh làm con cái Thiên Chúa, làm chi thể Đức Kitô và Đền thờ Chúa Thánh Thần[2]. Họ được tháp nhập vào Hội Thánh là Thân Thể Đức Kitô và là Gia Đình con cái Thiên Chúa. Như vậy, bí tích Rửa tội chính là cánh cửa dẫn vào đời sống hiệp thông: hiệp thông với nhau và Hiệp thông với Thiên Chúa. Bí tích Hôn phối tăng cường và cụ thể hoá sự hiệp thông mà bí tích Rửa Tội đã đem lại. 1.1. Đối với hai vợ chồng: Nhờ bí tích Hôn phối, đôi bạn được thông phần giao ước tình yêu của Đức Kitô và Hội Thánh: “Bởi thế, người ta sẽ lìa bỏ cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình và cả hai nên một thân xác. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5,31-32). Như vậy, lòng trung thành và tình yêu, mà đôi bạn trao cho nhau trong giao ước Hôn nhân, cũng chính là lòng trung thành trong đức tin và đức mến, mà mỗi người đã tuyên hứa khi chịu phép Rửa Tội. Vì thế, khi cùng sống Bí tích Rửa tội, họ cũng thực hiện chính lời giao ước Hôn nhân của mình. 1.2. Đối với con cái: Bí tích Rửa tội rất cần cho được sống đời đời: “Ai không sinh lại bởi nước và Thánh Thần, thì không thể vào được Nước Thiên Chúa” (Ga 3,5). Phép Rửa tha tội tổ tông và cả những tội riêng ta phạm trước đó, ban ơn thánh hoá, sinh ta làm con Thiên Chúa và con Hội Thánh. Do đó, hai vợ chồng cần đặc biệt quan tâm thực hiện việc Rửa tội cho con cái tùy theo các trường hợp sau đây: a) Trường hợp thông thường: Khi cháu bé được chừng một tháng, cha mẹ và người đỡ đầu đưa cháu đến nhà thờ xin cha xứ rửa tội cho. Đây là dịp tốt để mọi người ý thức và sống ơn gọi Kitô hữu của mình, nên rất khuyến khích mọi người trong gia đình và trong giáo xứ tham dự. Có thể tổ chức việc mừng “đầy tháng” cho con vào ngày Rửa tội. b) Trường hợp nguy tử: Nếu con chưa được rửa tội mà đau nặng, thì cha mẹ cần lo liệu cho con được rửa tội ngay, bằng cách: c) Trường hợp tối khẩn: - Khi khó sinh: Mọi bào thai phải được rửa tội dù nó được bao nhiêu tháng. Nếu bào thai chắc chắn còn sống, thì rửa tội cách tuyệt đối: “...., cha (mẹ) rửa con: nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. - Nếu không biết rõ thai còn sống hay chết, thì rửa tội hồ nghi: “...., nếu con còn sống, cha (mẹ) rửa con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. - Khi sẩy thai, thì xé bọc thai rồi đổ nước hoặc dìm vào nước, và đọc: “Nếu thành, ta rửa con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. 2. Hôn phối và Thêm sức Bí tích Thêm sức làm cho người tín hữu được đầy ơn Chúa Thánh Thần, để trở nên chứng tá đức tin, có nhiệm vụ bảo vệ và mở mang Nước Chúa. Khi lãnh Bí tích Hôn phối, đôi bạn trở thành nhân chứng cho tình yêu tự hiến của Đức Kitô và xây dựng Nước Chúa trong chính bậc sống hôn nhân của mình. Những hy sinh, đau khổ và thử thách trong cuộc sống chung, sự giáo dục con cái nên người con Chúa, đều là những công việc quý giá góp phần mở mang Nước Chúa. Chính ơn sức mạnh của Chúa Thánh Thần sẽ giúp đôi bạn chu toàn những nhiệm vụ trên. Nơi Bí tích Hôn phối, “chính Chúa Thánh Thần là dấu ấn hôn ước của hai vợ chồng, là nguồn mạch tình yêu của họ, là sức mạnh giúp họ chung thuỷ[3]“. Đối với gia đình Kitô hữu, sống bí tích Thêm sức là: 3. Hôn phối và Hoà giải Trước khi lãnh bí tích Hôn phối, Hội Thánh khuyên đôi bạn xưng tội để tâm hồn được trong sạch, xứng đáng đón nhận dồi dào ân huệ Chúa ban trong ngày thành hôn. Suốt quá trình chung sống, đôi bạn sẽ không sao tránh hết mọi khuyết điểm, sai sót. Những sai sót về tình yêu, về lòng trung thành, về đức nhẫn nại... có thể làm họ chán nản. Bấy giờ, Bí tích Hoà giải sẽ xóa đi những lỗi lầm ấy và ban nhiều ơn giúp đôi bạn phấn khởi vững bước trong cuộc sống hôn nhân, với nhiều cố gắng mới. Cũng nhờ Bí tích Hoà giải, họ ý thức được những buồn phiền đã gây ra cho nhau, từ đó trở nên xả kỷ và quảng đại hơn; họ cũng phấn đấu sống hoà hợp với các phần tử khác trong gia đình và lối xóm. Bí tích Hoà giải mời gọi gia đình luôn hoán cải theo Tin Mừng.[4] Người sạch sẽ thay quần áo trước khi bẩn và giặt ủi liền sau khi thay. Cũng thế, người tín hữu tốt, dù không có sai lỗi gì trầm trọng, vẫn cố gắng xưng tội thường xuyên, khoảng hai hay ba tháng một lần. Đàng khác, không chờ đến ngày xưng tội mới xét mình, nhưng nên kiểm điểm đời sống hằng ngày: Xét mình mỗi tối, để đáp lại tiếng Chúa cách quảng đại hơn. Muốn chiến thắng tội lỗi, cần dứt khoát ngay từ đầu, tránh xa các dịp tội và loại trừ cả những lệch lạc nhỏ bé nhất, ngay khi nó chỉ mới là một ý tưởng manh nha. 4. Hôn phối và Thánh Thể Ơn vô giá mà đôi bạn được hưởng trong thánh lễ Hôn nhân là Hiệp lễ. Lúc ấy, hai vợ chồng được tham dự vào chính giao ước tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Nhờ kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, họ được Ngài làm bạn đồng hành, được Ngài trợ lực suốt cuộc đời để họ nên một trong Ngài và để họ có thể yêu nhau, không phải bằng một tình yêu đầy giới hạn của mình, nhưng bằng chính tình yêu vô biên của Ngài. Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch tình yêu, mời gọi vợ chồng trở nên một thân thể duy nhất và chia sẻ cho nhau. Năng đến với Bí tích Thánh Thể, vợ chồng sẽ được Chúa Giêsu biến đổi để trở nên tấm bánh tình yêu bẻ ra trao tặng cho nhau: tấm bánh của sự sống, của niềm vui, của tha thứ và của sự tâm đầu ý hợp. Bí tích Thánh Thể chính là sức sống nuôi dưỡng, củng cố và đổi mới tình yêu của đời sống hôn nhân và gia đình. Nhờ tình yêu siêu nhiên ấy, họ dễ lướt thắng những bực bội, buồn phiền. Nhờ thánh lễ, cuộc sống hằng ngày của gia đình trở thành “hy lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa[5]“. Để được khoẻ mạnh, chẳng những phải tránh bệnh tật, mà còn phải ăn uống đầy đủ và tập thể dục. Đối với người tín hữu, dinh dưỡng là năng rước lễ và chăm đọc Lời Chúa, tập thể dục là cầu nguyện sâu xa và kiểm điểm đời sống hằng ngày. 5. Hôn phối và Truyền Chức thánh Hôn phối và Truyền Chức thánh là hai bí tích phục vụ cộng đoàn do chính Đức Kitô thiết lập, là Hội Thánh. Bí tích Hôn Phối gia tăng số con cái trong Hội Thánh, bí tích Truyền Chức tuyển chọn các tác viên phục vụ Hội Thánh. Chính ơn gọi làm linh mục được gieo mầm từ trong gia đình, nên gia đình được gọi là “Chủng viện sơ khởi[6]“. Hội Thánh ước mong rằng không những các đôi vợ chồng quan tâm nâng đỡ các ơn gọi linh mục và tu sĩ, mà còn tha thiết muốn dâng con cái mình làm việc tông đồ phụng sự Chúa. Do đó, Công đồng Vaticanô II khuyên: “Cha mẹ hãy thận trọng giúp đỡ con cái lựa chọn ơn gọi. Nếu thấy chúng có ơn thiên triệu, họ hãy thận trọng nuôi dưỡng ơn thiên triệu đó[7]“. Trong phạm vi gia đình, cha mẹ có trách nhiệm thánh hoá con cái, và đáp lại chính con cái cũng góp phần thánh hoá cha mẹ. Trong phạm vi giáo xứ, các chủ chăn có trách nhiệm thánh hoá giáo dân, và đáp lại chính giáo dân cũng góp phần thánh hoá các chủ chăn (Ga 17,19). Giáo dân có thể thực hiện công việc này bằng cách: 6. Hôn phối và Xức dầu bệnh nhân Trong ngày cưới, đôi bạn hứa chung thủy với nhau cho đến chết. Cái chết niêm ấn lòng trung tín trọn vẹn của họ. Trước biên giới sự sống và sự chết, bí tích Xức dầu giúp người tín hữu kết thúc đoạn đường lữ hành và sẵn sàng bước vào cuộc sống vĩnh cửu. Thánh Thể lúc ấy là của ăn đàng giúp người tín hữu đủ sức đi tới Bàn Tiệc muôn đời của giao ước tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh khải hoàn. Trên giường hấp hối, đôi bạn thấu triệt được vẻ cao đẹp cuộc sống chung đầy ý nghĩa của mình. Đó là cuộc đồng hành với Đức Kitô, là thời gian thử thách và tinh luyện tình yêu, là đoạn đường dẫn tới cuộc sống vĩnh cửu mai sau đầy hạnh phúc. Hãy liệu cho bệnh nhân được lãnh nhận bí tích Xức dầu lúc còn tỉnh táo. Những người thân yêu nên có mặt trong giờ phút ấy để cầu nguyện cho bệnh nhân; để hỗ trợ tâm lý cho bệnh nhân, vì lúc ấy bệnh nhân thường rất sợ cô độc. Bí tích Xức dầu cũng nhắc nhớ đến sự hiện diện của những người cao niên trong gia đình. Đừng coi sự hiện diện của họ như một gánh nặng, nhưng hãy coi đó là một ơn Chúa: người già là hiện thân của kinh nghiệm quá khứ, có thể giúp giới trẻ nhận ra lẽ khôn ngoan trong cuộc sống. Đồng thời, người già cũng dễ mang tâm trạng cô đơn, sợ bị bỏ rơi. Do đó, cần quan tâm chăm sóc những người già cả trong gia đình mình cũng như trong lối xóm. 2. H. Tại sao ta phải cầu nguyện? T. Ta phải cầu nguyện vì Chúa Giêsu đã truyền dạy, hơn nữa, đời sống thiêng liêng cần được nuôi dưỡng và phát triển bằng sự cầu nguyện. 3. H. Có mấy hình thức cầu nguyện trong gia đình? T. Có hai hình thức : 4. H. Ta phải có tâm tình nào khi cầu nguyện? T. Khi cầu nguyện ta phải có tâm tình khiêm nhường và thống hối. 5. H. Vì sao việc cầu nguyện chung trong gia đình là quan trọng? T. Việc cầu nguyện trong gia đình là quan trọng, vì nó giúp ta kết hiệp với Chúa và với nhau, tạo cho gia đình một bầu khí yêu thương và thánh thiện, giúp chuẩn bị việc cử hành phụng vụ ở nhà thờ và kéo dài phụng vụ ấy ngay trong gia đình. 6. H. Việc cầu nguyện chung và cầu nguyện riêng liên quan với nhau thế nào? T. Việc cầu nguyện chung và cầu nguyện riêng nâng đỡ và bổ túc cho nhau. Nhờ cầu nguyện chung, ta sẽ quen cầu nguyện riêng, đồng thời nếu mọi người trong gia đình năng cầu nguyện riêng, thì giờ kinh chung sẽ càng tốt đẹp. 7. H. Mỗi giờ kinh chung trong gia đình thường gồm mấy yếu tố? T. Mỗi giờ kinh chung trong gia đình thường gồm năm yếu tố này : 5. GỢI Ý SUY NGHĨ : 1. Mẹ Têrêsa Calcuttta nói: “Gia đình nào cầu nguyện chung với nhau, gia đình đó sẽ bền vững”. Anh chị nghĩ thế nào về câu nói trên? 6. CẦU NGUYỆN : Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương dựng nên chúng con để chúng con được sống hạnh phúc bên Chúa mãi mãi. Xin cho gia đình chúng con biết quý trọng những giờ phút quây quần bên Chúa. Xin Chúa liên kết chúng con nên một trong tình yêu, ngõ hầu mai sau gia đình chúng con sẽ được đoàn tụ bên Chúa mãi mãi trên Nước Trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen [1] GLHT 2204-2205 Bài 17. Sinh con có trách nhiệm “Hiền thê bạn trong cửa trong nhà, Sách Sáng thế kể: Hai chị em Lêa và Rakhen cùng lấy một chồng là Giacop. Khi thấy chị Lêa sinh được bốn đứa con, còn mình thì mãi không sinh nở, Rakhen đã phát ghen và nói với Giacop: “Hãy cho tôi được có con, không thì tôi chết mất” (St 30,1). Một đứa con sinh ra trong sự mong đợi quả là niềm hạnh phúc lớn lao cho đôi vợ chồng. Tuy nhiên bên cạnh niềm vui cũng có nhiều nỗi lo. Chẳng hạn đối với hai vợ chồng : phải làm sao có đủ khả năng để chăm sóc cho con cái. Đối với xã hội, dân số gia tăng có nghĩa là phải làm sao có thêm lương thực, thêm trường học, thêm bệnh viện, thêm việc làm... Chính vì thế, càng ngày người ta càng ý thức hơn vấn đề sinh con có trách nhiệm. Đây cũng là vấn đề quan trọng mà các anh chị đang chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân cũng như các đôi vợ chồng cần quan tâm suy nghĩ. 1. Con cái là ân huệ cao quý nhất của hôn nhân “Truyền sinh là một ân huệ, một mục tiêu của hôn nhân, vì tình yêu vợ chồng tự nhiên hướng về việc sinh sản con cái. Con cái là hoa quả và thành tựu của tình yêu vợ chồng, hiện diện ngay trong việc vợ chồng hiến thân cho nhau, chứ không phải một cái gì từ bên ngoài được ghép vào. Vì thế Hội Thánh “bảo vệ sự sống[1]“ và dạy rằng “mọi hành vi ân ái phải tự nó mở ngỏ cho việc truyền sinh[2]“. “Giáo lý này đã được Huấn Quyền trình bày nhiều lần, nền tảng của giáo lý này là sự liên kết bất khả phân ly giữa hai ý nghĩa của hành vi ân ái: kết hợp và truyền sinh. Đây là điều chính Thiên Chúa đã muốn và con người không được tách rời[3]“. 2. Cần phải sinh con một cách có trách nhiệm Nhiệm vụ sinh sản và giáo dục con cái là sứ mạng riêng biệt của vợ chồng. Trong khi thực hiện nhiệm vụ ấy, họ biết rằng mình cộng tác vào công trình sáng tạo của Đấng Tạo Hóa và trở thành những kẻ diễn đạt tình yêu của Ngài. Bởi vậy, họ sẽ chu toàn bổn phận của mình với trách nhiệm của một con người và của một Kitô hữu[4]. Hội Thánh cũng nhấn mạnh rằng chính lương tâm trong sáng của đôi bạn là mực thước chỉ dạy họ quyết định về số con của mình[5]. Nhờ vâng phục Thiên Chúa và đồng tâm hiệp lực với nhau, hai vợ chồng sẽ tạo được cho mình một phán đoán ngay thẳng: Sự phán đoán ấy, chính đôi vợ chồng phải suy nghĩ trước mặt Thiên Chúa. Khi hành động, các vợ chồng Kitô hữu luôn ý thức mình không thể làm theo sở thích, nhưng phải tuân theo tiếng nói của một lương tâm được khuôn đúc theo luật Chúa và giáo huấn của Hội Thánh. 3. Những tiêu chuẩn để quyết định điều hòa sinh sản Sinh sản có trách nhiệm là suy nghĩ kỹ lưỡng và phán đoán chín chắn trước khi quyết định sinh con. Đôi vợ chồng cần suy nghĩ và phán đoán dựa vào các tiêu chuẩn thực tế sau đây: 3.1. Vì lợi ích của chính vợ chồng Mỗi đứa con chào đời phải củng cố thêm tình yêu và hạnh phúc của vợ chồng, vì đứa con là kết quả của tình yêu tự hiến của họ. Trước khi quyết định sinh con, vợ chồng phải lưu ý đến những yếu tố giúp mang lại hoặc ảnh hưởng đến hạnh phúc của họ, chẳng hạn sức khỏe của người mẹ, tâm lý, ước vọng tương lai... 3.2. Vì lợi ích của con cái Con cái là ân huệ tốt đẹp nhất của hôn nhân. Sinh một đứa con là tự ý chấp nhận tạo mọi điều kiện để nó có thể sống hạnh phúc, sống xứng đáng với ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa. Do đó, đôi bạn cần lưu ý đến khả năng tài chính, nơi ăn chốn ở, những phương cách giáo dục... và tính toán xem nếu sinh thêm một đứa con, liệu mình có thể nuôi dưỡng và giáo dục nó được chu đáo không. 3.3. Vì lợi ích của xã hội và Hội Thánh Xã hội phát triển là nhờ những phần tử khoẻ mạnh, siêng năng làm việc và có những đức tính cần thiết. Cũng vậy, Hội Thánh chỉ thực sự phát triển khi con cái của mình không những kiên vững về đức tin mà còn trưởng thành về nhân bản nữa. Do đó, sự lượng định về khả năng nuôi dạy và giáo dục con cái trở thành những phần tử hữu ích cho xã hội và Hội Thánh cũng là một tiêu chuẩn mà đôi bạn cần lưu ý khi quyết định về việc điều hòa sinh sản. 4. Vấn đề ngừa thai Do tình trạng tài nguyên trên thế giới phân phối không đều, ngày nay những nước nghèo không đủ sống, trong khi những nước giàu quá thừa thãi. Cũng vì thế, đang khi nhiều nước giàu khuyến khích các gia đình có thêm con cái, thì các nước nghèo bị áp lực phải tìm cách hạn chế dân số. Nhiều gia đình tự thấy chỉ nên sinh con trong khả năng mình có thể nuôi dạy chúng nên người. Trong việc kế hoạch hóa gia đình, người Công giáo không được phép sử dụng cách ngừa thai nhân tạo mà chỉ được sử dụng cách ngừa thai tự nhiên, khi có lý do chính đáng theo những tiêu chuẩn của Hội Thánh. “Một khía cạnh đặc biệt của trách nhiệm đó là điều hòa truyền sinh. Khi có lý do chính đáng, đôi vợ chồng có quyền kéo dài khoảng cách giữa các lần sinh nở. Chính họ phải chứng thực rằng ước muốn đó không do ích kỷ, nhưng xứng hợp với lòng quảng đại chính đáng của bậc làm cha mẹ có trách nhiệm. Ngoài ra, họ phải xử sự theo những tiêu chuẩn khách quan của luân lý: “Khi cần hòa hợp tình yêu vợ chồng với việc sinh sản con cái có trách nhiệm, phải ý thức rằng giá trị luân lý của hành động không chỉ lệ thuộc vào ý muốn thành thực và việc cân nhắc các lý do, nhưng phải được thẩm định theo những tiêu chuẩn khách quan suy diễn từ bản tính nhân vị và của hành động nơi nhân vị: những tiêu chuẩn ấy tôn trọng ý nghĩa trọn vẹn của sự trao hiến và sinh sản con cái trong khung cảnh tình yêu đích thực. Đó là điều không thể thực hiện được nếu không thực tâm vun trồng đức khiết tịnh trong bậc vợ chồng”[6]. 4.1. Cách thức ngừa thai nhân tạo Ngừa thai nhân tạo là trực tiếp làm cho khả năng sinh sản vô hiệu hoặc làm cho diễn tiến truyền sinh bị ngăn chặn hay không thể đạt kết quả. Cách thức ngừa thai nhân tạo áp dụng cho nam giới gồm những phương pháp: thắt ống dẫn tinh, bao cao su, xuất tinh ngoài âm đạo, thuốc diệt tinh trùng... Cách thức ngừa thai nhân tạo áp dụng cho nữ giới gồm những phương pháp : thắt ống dẫn trứng, thuốc tránh thai (uống, tiêm hoặc cấy dưới da), dụng cụ như vòng xoắn, màng ngăn... Hội Thánh cấm dùng các phương pháp ngừa thai này, vì chúng chẳng những ngăn cản vợ chồng cộng tác vào công cuộc trao ban sự sống mà còn làm sai lạc sự thật căn bản của tình yêu vợ chồng là hiến thân trọn vẹn cho nhau. “Cấm việc hút điều hoà kinh nguyệt, vì là hình thức phá thai non. Cấm những hành động trực tiếp ngăn cản việc thụ thai tạm thời hay vĩnh viễn. Cấm sử dụng các dụng cụ, các loại thuốc ngừa thai[7]“. 4.2. Cách thức ngừa thai tự nhiên Ngừa thai tự nhiên là tiết dục định kỳ, vợ chồng kiêng giao hợp trong thời kỳ người vợ dễ dàng thụ thai. Nếu có lý do chính đáng, vợ chồng có thể sử dụng cách thức ngừa thai tự nhiên này, vì nó không đối nghịch với bản chất và mục đích của hành vi yêu thương thân mật ; không trực tiếp ngăn cản việc trứng thụ tinh hay giết chết bào thai[8]. Sau đây là hai phương pháp giúp xác định ngày trứng rụng, cũng như xác định trong chu kỳ kinh nguyệt của người phụ nữ những ngày nào có thể thụ thai và những ngày nào không thể thụ thai. - Phương pháp Ogino-Knauss Phương pháp này do hai bác sĩ Ogino người Nhật và Knauss người Áo cùng tìm ra vào các năm 1925-1930. Nó dựa trên chu kỳ kinh nguyệt để xác định ngày rụng trứng. Trứng thường rụng vào ngày thứ 14 trước khi có kinh lần sau. Thỉnh thoảng trứng cũng có thể rụng vào ngày thứ 12 hoặc ngày thứ 16. Phương pháp này còn dựa vào thời gian hoạt động của trứng và tinh trùng. Sau khi vào âm đạo, tinh trùng có thể sống khoảng 72 giờ. Còn trứng, sau khi rụng, có thể sống khoảng 24 giờ. Căn cứ vào những yếu tố trên, người ta có thể xác định được trong một chu kỳ kinh nguyệt khoảng thời gian nào là có thể thụ thai và khoảng thời gian nào là không thể thụ thai. Nếu chưa muốn có thai thì kiêng giao hợp trong khoảng thời gian có thể thụ thai. - Phương pháp quan sát chất nhờn Phương pháp này do cặp vợ chồng người Úc John và Evelyn Billings tìm ra, nên còn gọi là phương pháp Billings. Nơi người phụ nữ, việc tiết chất nhờn ở cổ tử cung và âm đạo thường theo một quy trình nhất định. Sau những ngày kinh nguyệt, âm đạo thường khô ráo. Trước khi trứng rụng vài ngày, chất nhờn bắt đầu tiết ra, lúc đầu ít, đục, dẻo; sau đó nhiều, trong, trơn ướt, nhớt, có thể kéo sợi được, giống như lòng trắng trứng gà. Đây chính là ngày trứng rụng. Sau đó chất nhờn trở lại đục, dẻo và ít trong vài ngày, trước khi người phụ nữ lại cảm thấy khô ráo ở âm đạo cho đến kỳ kinh lần sau. Nếu chưa muốn có thai, vợ chồng cần kiêng giao hợp trong những ngày có chất nhờn ở âm đạo, nhất là trong ngày chất nhờn có nhiều. Trong thực tế, để tăng cường hiệu quả, người ta thường phối hợp cả hai phương pháp. Thật ra, không có phương pháp nào mà không có bất tiện và không đòi hy sinh, cố gắng. Ai tin vào Đức Kitô đều được mời gọi sống khiết tịnh tùy theo bậc sống của mình. Vả lại, mọi người đều phải ý thức rằng sự sống con người và trách nhiệm lưu truyền sự sống không chỉ giới hạn ở đời này, cũng như không thể hiểu và đo lường được trọn vẹn ý nghĩa ngay từ bây giờ, nhưng luôn quy chiếu về định mệnh vĩnh cửu của con người. Những phương pháp trên đây vẫn chưa phải là đơn giản. Chúng ta cần hưởng ứng lời mời gọi của Đức Thánh Cha để cầu xin Chúa cho các nhà khoa học có thể tìm ra những phương thức giản tiện hơn nữa, nhờ đó các đôi bạn có thể được dễ dàng hơn. 5. Vấn đề phá thai Sự sống con người phải được tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ từ lúc được thụ thai. Ngay khi bắt đầu hiện hữu, con người phải được kẻ khác nhìn nhận các quyền làm người, trong đó có quyền được sống là quyền bất khả xâm phạm của mọi người vô tội[9]. Ngay từ thế kỷ thứ nhất, Hội Thánh đã xác định phá thai là một tội ác. Giáo huấn ấy bất biến, không hề thay đổi. Trực tiếp phá thai dù là mục đích hay phương tiện, đều vi phạm nghiêm trọng luật luân lý[10]. Cộng tác vào chính việc phá thai là một lỗi nặng. Theo giáo luật, Hội Thánh ra vạ tuyệt thông cho kẻ phạm tội này[11]. Làm như thế Hội Thánh không có ý giới hạn lòng thương xót của Thiên Chúa, nhưng muốn nhấn mạnh tính cách nghiêm trọng của tội ác đã phạm, sự thiệt hại không thể sửa chữa được đã gây ra cho đứa trẻ vô tội bị giết chết, cho cha mẹ của em và cho toàn xã hội[12]. 6. Những đôi vợ chồng vô sinh Thánh Kinh luôn coi những gia đình đông con là một dấu chỉ phúc lành của Thiên Chúa (x. Tv 128,3-4) Thật đau khổ cho những đôi vợ chồng không con. “Ông Abraham thưa: Lạy Đức Chúa, Chúa sẽ ban cho con cái gì? Con ra đi mà không con cái” (St 15,2). Rakhen nói với chồng: “Hãy cho tôi được có con, không thì tôi chết mất” (St 30,1). Quả thực, những đôi bạn ở trong hoàn cảnh vô sinh mới thấm thía sâu xa rằng “Con cái là ơn huệ cao quý nhất của hôn nhân và là niềm hạnh phúc lớn lao của cha mẹ[13].” Bởi vậy, thật hạnh phúc khi có thể nhờ những tiến bộ khoa học để chữa trị chứng vô sinh. Tuy nhiên, những kỹ thuật phá vỡ liên hệ phụ mẫu qua sự can thiệp của một người thứ ba (cho tinh dịch hoặc trứng, cho mượn tử cung) là những hành vi phải bị loại bỏ. Những kỹ thuật này (thụ tinh nhân tạo và thụ thai nhân tạo khác nguồn) vi phạm quyền của đứa trẻ phải được sinh ra do cha mẹ đã chính thức kết hôn và quyền được biết cha mẹ là ai. Những kỹ thuật này vi phạm “độc quyền làm cha làm mẹ của đôi vợ chồng”[14]. Về mặt luân lý, những kỹ thuật thụ tinh nhân tạo và thụ thai nhân tạo vẫn không thể được chấp nhận, vì tách rời hành vi tính dục với việc truyền sinh. Sinh sản con cái không còn là một hành vi của hai con người hiến thân cho nhau, nhưng “sự sống và căn tính của phôi thai bị trao vào tay các bác sĩ và các nhà sinh học, và để kỹ thuật thống trị trên nguồn gốc và vận mệnh của con người. Một mối quan hệ thống trị như thế tự bản chất đi ngược với phẩm giá và sự bình đẳng chung của cả cha mẹ lẫn con cái[15]“. Để cho việc truyền sinh xứng với phẩm giá con người, chúng ta phải tôn trọng mối dây liên hệ giữa những ý nghĩa của hành vi ân ái và sự tôn trọng tính thống nhất của bản tính con người[16]. Đôi vợ chồng nào, sau khi đã tận dụng mọi trợ giúp chính đáng của y khoa, vẫn phải chịu nỗi đau khổ vô sinh, được mời gọi liên kết với Thập Giá của Chúa là nguồn mạch mọi phong phú thiêng liêng. Họ có thể sống quảng đại bằng cách nhận nuôi những đứa trẻ bị bỏ rơi, hoặc tham gia những công tác phục vụ tha nhân[17]. * * * Trong tâm tình biết ơn tình mẹ của Hội Thánh, chúng ta cùng nhau nghe lại lời Đức Thánh Cha Phaolô VI trong số 25 của thông điệp Sự Sống Con Người:“Giờ đây cha xin ngỏ lời riêng với các con cái nam nữ của cha mà đa số được Thiên Chúa mời gọi phụng sự Ngài trong bậc hôn nhân. Đang khi nêu rõ cho các con những điều không thể vi phạm mà luật Chúa đã quy định, Hội Thánh cũng loan báo ơn cứu độ cho các con, và qua các bí tích, Hội Thánh vẫn luôn mở rộng cho các con nguồn ơn thánh, giúp các con trở thành những thụ tạo mới, vừa biết lấy tình mến và tự do mà đáp lại ý định của Thiên Chúa Tạo Hoá và là Đấng Cứu Độ, vừa nghiệm ra rằng ách của Đức Kitô luôn êm ái dịu dàng (Mt 11,30). Ước gì trong trách nhiệm vợ chồng Kitô hữu, các con biết khiêm nhường vâng phục Hội Thánh và ý thức rõ rằng các con đang được gọi sống đời Kitô hữu, một ơn gọi đã bắt nguồn từ bí tích Rửa Tội và nay được củng cố và làm sáng tỏ hơn trong bí tích Hôn phối. Nhờ bí tích này, các con được thêm sức mạnh và được thánh hiến để trung thành chu toàn các bổn phận bậc mình. Vì thế ước gì các con ý thức trọn vẹn ơn gọi của các con và làm chứng cho Đức Kitô trước mặt thế gian. Thật vậy, Chúa đã giao cho các con trách nhiệm làm cho mọi người thấy được sự thánh thiện và niềm vui của luật Chúa, luật dạy chúng con vừa yêu thương nhau vừa biết cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa là tác giả của sự sống con người. Cha không hề muốn làm ngơ trước những khó khăn rất lớn đang vây phủ đời sống các đôi bạn Kitô hữu. Thế nhưng chúng ta quá biết rằng chỉ có cửa hẹp và đường chật mới dẫn đến sự sống (Mt 7,14). Chính niềm hy vọng hướng tới sự sống ấy sẽ như đuốc rực rỡ chiếu sáng bước đường chúng con đi, để chúng con có được một tinh thần quả cảm, luôn cố gắng “sống tiết độ, công minh và đạo đức ở đời này” (Tt 2,12), vì biết chắc rằng “bộ mặt thế gian này đang qua đi” (1Cr 7,31). 4 GHI NHỚ : 1. H. Sinh sản có trách nhiệm nghĩa là gì? T. Sinh sản có trách nhiệm nghĩa là khi sinh con, cha mẹ phải lo nuôi dưỡng, giáo dục, để chúng nên người. Bởi vậy vợ chồng cần suy xét cẩn thận để có quyết định đúng đắn và phù hợp trong việc sinh con. 2. H. Vì sao cần phải sinh sản có trách nhiệm? T. Vì sinh sản có trách nhiệm, vừa thi hành đúng ý định của Thiên Chúa, vừa đáp ứng đòi hỏi của tình yêu vợ chồng, để đem lại lợi ích cho gia đình, xã hội và Hội Thánh. 3. H. Để sinh sản có trách nhiệm, vợ chồng Kitô hữu phải có thái độ nào? T. Vợ chồng Kitô hữu phải có những thái độ sau đây : 4. H. Cách thức ngừa thai tự nhiên là gì? T. Cách thức ngừa thai tự nhiên là tiết dục định kỳ, vợ chồng kiêng cữ trong thời kỳ người vợ dễ dàng thụ thai. Khi có lý do chính đáng, vợ chồng được quyền sử dụng cách thức này. 5. H. Có những phương pháp nào giúp xác định được ngày trứng rụng? T. Có hai phương pháp này : 6. H. Cách thức ngừa thai nhân tạo là gì? T. Cách thức ngừa thai nhân tạo là trực tiếp làm cho khả năng sinh sản ra vô hiệu hoặc làm cho diễn tiến truyền sinh bị ngăn chặn hay không thể đạt kết quả. Người Công giáo không được sử dụng cách thức này. 7. H. Để thực hiện cách thức ngừa thai nhân tạo người ta thường dùng những phương pháp nào? T. Đối với nam giới gồm có: thắt ống dẫn tinh, dùng bao cao su, xuất tinh ra ngoài, dùng thuốc diệt tinh trùng. Đối với nữ giới gồm có: thắt ống dẫn trứng, thuốc tránh thai (uống, tiêm hoặc cấy dưới da), dụng cụ như vòng xoắn, màng ngăn. 8. H. Phá thai có tội hay không? T. Phá thai là tội rất nặng vì đây là tội giết người. 5. GỢI Ý SUY NGHĨ : 1. Theo anh chị, ngày nay sự sống con người đang được tôn trọng hay đang bị đe dọa? 6. CẦU NGUYỆN : Lạy Mẹ Maria, bình minh của thế giới mới, Mẹ của mỗi người chúng con, [1] x. GĐ 30 “Có con cái ư? Hạnh phúc của cha mẹ là được thấy con cái nên người. Ngược lại, nếu con cái hư hỏng sẽ là một nỗi đắng cay phiền muộn. Kết quả đáng mừng hay đáng tủi ấy tuỳ vào sự bận tâm giáo dục của cha mẹ ngay từ đầu. Giáo dục con cái không phải chỉ là một bổn phận quan trọng, mà còn là một vinh dự lớn lao của bậc làm cha làm mẹ, bởi vì được cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo nên những con người mới, những người con của Thiên Chúa. Đó là việc trồng người. Không chỉ trồng nên những người hữu ích cho xã hội, cho Hội Thánh mà còn trồng nên những vị thánh. Vì thế, giáo dục con cái không phải là một việc tuỳ hứng, nhưng cần có một đường hướng, một kế hoạch và những phương pháp. 1. Quyền và bổn phận giáo dục con cái Quyền và bổn phận giáo dục con cái là cái cốt lõi của việc làm cha làm mẹ, bởi vì nó liên quan đến việc lưu truyền sự sống. So với những người khác, thì vai trò giáo dục của cha mẹ là khởi nguồn và là cơ bản vì tương quan yêu thương độc nhất vô nhị giữa cha mẹ và con cái. Vai trò giáo dục của cha mẹ không ai thay thế được và cũng không nhường cho ai được, nên không thể nào khoán trắng cho người khác hoặc để người khác chiếm đoạt. Yếu tố nền tảng cơ bản nhất đánh dấu vai trò giáo dục của cha mẹ là tình phụ tử và mẫu tử. Chính tình yêu thương này, như nguồn mạch xuất phát, trở thành linh hồn và quy tắc để gợi ra những sáng kiến và hướng dẫn cho mọi hoạt động giáo dục cụ thể, làm cho chúng thấm đượm những giá trị của sự dịu dàng, kiên nhẫn, nhân hậu, phục vụ, vô vị lợi, hy sinh, là những hoa trái quý giá nhất của tình yêu[1]. 2. Phải dạy từ lúc nào? Công đồng Vaticanô II ngỏ lời với các bậc làm cha làm mẹ: “Vì đã lãnh nhận ân sủng cũng như bổn phận của bí tích hôn phối nên cha mẹ phải dạy dỗ con cái ngay từ nhỏ[2]“. Cha ông chúng ta cũng thường nói: “Còn đương thơ” hay “ngay từ nhỏ” ở đây có nghĩa là ngay từ khi còn ở trong bụng mẹ. Khoa học ngày nay cho thấy: Người mẹ ảnh hưởng đến tâm tính và sức khoẻ của đứa con ngay từ lúc phôi thai. Việc giáo dục này được gọi là thai giáo. Trong thời gian này, các tâm tình và thái độ ứng xử của cha mẹ sẽ ghi dấu sâu đậm trên tâm tính đứa con sắp chào đời. Do đó, những bậc cha mẹ thương con sẽ hết sức lưu ý, để trong thời gian mang thai sống thật lành mạnh về luân lý và tâm linh. Tuy nhiên, thời gian thuận tiện nhất để trực tiếp giáo dục con cái, đó là khi đứa con bắt đầu có trí khôn, bắt đầu nhận biết về những điều cha mẹ dạy bảo. Lúc bấy giờ gia đình sẽ trở nên mái trường đầu tiên dạy cho đứa bé những bài học làm người. Trong mái trường đó, cha mẹ chính là những “thày cô” được tín nhiệm và yêu thương hơn cả, vì cha mẹ là những người sống gần con cái, hiểu biết con cái và yêu thương con cái hơn hết. 3. Phải dạy những gì? Mục tiêu của của việc giáo dục Kitô giáo là giúp con cái trở thành người và trở thành người con Thiên Chúa. Khuôn mẫu của con người hoàn hảo đó là Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa đã hạ sinh làm người để nên mẫu mực cho chúng ta noi theo[3]. Trong việc giáo dục con cái, phải để ý đến mặt nhân bản cũng như mặt đức tin. 3.1. Giáo dục nhân bản Nền giáo dục nhân bản phải bao gồm cả ba phương diện: đức, trí và thể dục. . Khôn ngoan: biết khiêm nhường lắng nghe và mau mắn vâng lời; biết suy nghĩ cân nhắc trước khi làm và khi làm xong sẽ dừng lại một chút để kiểm điểm và rút kinh nghiệm; biết xem xét và chuẩn bị kỹ để chu toàn mọi bổn phận thật chu đáo cũng như để ứng xử đúng trước những tình thế mới. . Công bằng: Chăm chỉ làm tròn bổn phận; yêu thương mọi người, tôn trọng của cải và quyền lợi của họ; tôn trọng của chung và biết lo cho công ích; luôn thành thật trong lời nói và việc làm; không bao giờ gian lận. . Tiết độ: Có kỷ luật, đúng giờ giấc và chừng mực trong những điều nhỏ mọn hằng ngày, trong ăn uống cũng như giải trí; tập cân nhắc đúng bậc thang giá trị theo tinh thần Kitô giáo và biết chọn lựa cách ý thức. Biết tiết kiệm. Dạy cho con cái biết giá trị của lao động cũng như giá trị thực sự của của cải vật chất. Hướng dẫn con cái chọn thú vui giải trí cũng như bè bạn . Dũng cảm: Biết can đảm đứng vững trong điều tốt; biết chấp nhận những sai lỗi của mình, tự tin và tự lập, biết lãnh nhận trách nhiệm và hậu quả do công việc mình đã làm. Đối với người Việt Nam, những đức tính ấy được diễn tả qua khái niệm “trung dung”, Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Những đức tính này giúp ta biết yêu thương, có lòng biết ơn, cộng tác và nâng đỡ người khác, nói năng cũng như cư xử lễ độ và tế nhị, biết suy nghĩ cân nhắc và biết tạo nên sự tin cậy lẫn nhau. Riêng đối với nữ giới cần thêm: Công, dung, ngôn, hạnh. Giáo dục giới tính: Ngoài ra, trong việc giáo dục nhân bản cũng phải để ý đến việc giáo dục giới tính, hướng dẫn con cái về phái tính và tính dục. Việc giáo dục này nhằm mục đích giúp con cái có một sự hiểu biết về tính dục phù hợp với lứa tuổi và tầm nhận thức, để chúng sống trong sạch, trưởng thành, xứng đáng là người nam, người nữ như ý Chúa. Trong việc giáo dục này, cũng cần dạy cho con cái biết sử dụng đúng đắn các phương tiện truyền thông, đặc biệt về phim ảnh, internet. Nền giáo dục nhân bản này là điều hết sức cần thiết. Đức Thánh Cha nói: “Dù phải đương đầu với những khó khăn, mà ngày nay lại thường là những khó khăn to lớn trong trách nhiệm giáo dục con cái, bậc cha mẹ cần phải tin tưởng và can đảm giáo dục con cái họ theo những giá trị chính yếu của đời người. Trẻ em phải lớn lên trong một sự tự do chân chính trước các của cải vật chất, biết chọn một nếp sống giản dị và khắc khổ, vì xác tín mạnh mẽ rằng: giá trị của con người là do cái mình làm, hơn là do cái mình có.”[4] Xem đó chúng ta thấy: Để trở thành một người Kitô hữu, thì tiên vàn phải là một người cho đúng nghĩa của nó. Hay nói một cách khác: Phải là người trước đã, rồi sau đó mới có thể là người Kitô hữu. 3.2. Giáo dục đức tin Là người có đạo, ngoài nền giáo dục nhân bản, cha mẹ còn phải cho con cái nền giáo dục Công giáo, nghĩa là ngay từ hồi còn tấm bé, đã phải dạy cho con cái biết mến Chúa yêu người, biết tuân giữ những giới luật của Chúa, biết tham dự những công việc đạo đức, biết siêng năng lãnh nhận các bí tích, nhờ đó con cái sẽ trở thành những Kitô hữu đích thực, nghĩa là những người có Đức Kitô trong tâm hồn và mang Đức Kitô trong cuộc sống, cũng như trở thành những người tín hữu đích thực, nghĩa là những người có đức tin và sống đức tin của mình giữa lòng cuộc đời. Công đồng Vaticanô II nói: “Vợ chồng đã lãnh nhận phẩm giá và chức vụ làm cha mẹ, sẽ chăm lo chu toàn bổn phận giáo dục, nhất là về phương diện tôn giáo, vì bổn phận này liên hệ đến họ trước[5]“. Công đồng Vaticanô II cũng xác định nội dung của việc giáo dục Kitô giáo như sau: “Việc giáo dục này không những chỉ giúp nhân vị được trưởng thành, nhưng chính là nhằm giúp những người đã được rửa tội, để nhờ hiểu biết sâu xa hơn mầu nhiệm cứu rỗi, thì càng ngày càng ý thức hơn về hồng ân đức tin đã nhận lãnh, biết cách thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và chân lý (x. Ga 4, 23), nhất là qua việc cử hành phụng vụ, cũng như được huấn luyện để biết sống theo con người mới trong công bình và thánh thiện của chân lý (Ep 4,22-24), và nhờ vậy họ đạt tới con người toàn thiện, chín chắn đạt tới sự sung mãn của Đức Kitô (x. Ep 4,13), góp phần làm cho Nhiệm thể được tăng trưởng[6]. Trong việc giáo dục đức tin, cũng cần để ý tới việc giúp con cái nhận ra ơn gọi của chúng và giúp chúng đáp lại ơn gọi đó. Khi con cái bắt đầu học giáo lý, cha mẹ nên quan tâm tìm hiểu hệ thống các lớp giáo lý trong giáo xứ mình. Ngay cả khi con cái chưa đi học, nếu được, họ cũng nên tham gia giảng dạy hoặc hỗ trợ cho các lớp giáo lý, bởi đó là cách đơn giản để nâng cao nhận thức giáo lý của mình và tự trang bị khả năng đào tạo đức tin cho con cái. Một số nơi, vì giới phụ huynh ít tham gia, việc giảng dạy giáo lý được giao cho lớp trẻ và nói tới Giáo lý viên là người ta dễ nghĩ tới những anh chị chưa lậ Hội Thánh Công giáo đón nhận việc thờ cúng ông bà như thế nào? Hội Thánh nhìn nhận đó là một hình thức tốt đẹp để bày tỏ lòng tưởng nhớ công ơn tiền nhân. Hội Thánh khuyến khích các tín hữu phát huy những tinh hoa trong văn hoá dân tộc. Tuy nhiên cần loại trừ những hình thức trái ngược với giáo lý Công giáo. Cũng cần nâng cao ý thức lịch sử về gia đình: Quan tâm bảo tồn gia phả và những kỷ vật của ông bà cha mẹ đã qua đời. Gia đình nào đã thất lạc gia phả, nên tìm cách dựng lại những gì còn biết được, nên làm càng sớm càng tốt khi những bậc cao niên trong dòng họ còn đủ minh mẫn để cung cấp các dữ liệu họ nắm được. Cũng nên quan tâm lưu giữ những hình ảnh và giấy tờ quan trọng của gia đình để các thế hệ sau có sử liệu. 2. Với họ hàng đôi bên Đối với người Việt Nam, tương quan với họ hàng gia tộc là điều quan trọng. Lấy vợ, lấy chồng không chỉ là lấy một người mà “lấy” cả họ hàng nhà chồng, nhà vợ. Cách cư xử với họ hàng bên chồng hay bên vợ không chỉ liên quan đến bản thân mà còn liên quan đến cả họ hàng bên mình. Bởi vậy, cần yêu mến và học cách cư xử với tất cả mọi người trong dòng họ hai bên, như ông bà, chú bác, cô dì, cậu mợ và anh chị em. Cần sống tình gia tộc bằng cách năng lui tới viếng thăm và giúp đỡ theo khả năng của mình. 4 GHI NHỚ : 1. H. Tại sao con cái phải hiếu thảo đối với cha mẹ? T. Vì cha mẹ là những người cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh thành, nuôi dưỡng và giáo dục ta nên người. Ngoài ra, đây còn là điều răn Chúa đã truyền dạy. 2. H. Con cái biểu lộ lòng hiếu thảo với cha mẹ như thế nào? T. Con cái bày tỏ lòng hiếu thảo qua những việc sau đây: - Một là khi các ngài còn sống thì phải yêu mến, tôn kính, vâng lời, chăm sóc và giúp đỡ. 3. H. Ta cần cư xử thế nào với họ hàng đôi bên? T. Ta phải kính trọng và yêu mến mọi người trong gia tộc; năng lui tới và giúp đỡ theo khả năng mình. 5. GỢI Ý SUY NGHĨ : 1. Có người nói: “Theo đạo Chúa là bỏ ông bà”. Anh chị trả lời thế nào? 6. CẦU NGUYỆN : Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Cha đã muốn biểu lộ tình Cha yêu thương chúng con qua tấm lòng yêu thương của người cha người mẹ trần thế. Cha còn muốn rằng, sau Cha, chúng con phải tôn kính cha mẹ vì các ngài đã có công sinh thành và dưỡng dục chúng con nên người. Xin Cha chúc lành, nâng đỡ và ban mọi ơn lành hồn xác cho cha mẹ chúng con. Xin giúp chúng con luôn biết biết lấy tình yêu mà đáp lại tình yêu của các ngài bằng cách sống hiếu thảo, yêu mến, tôn kính, vâng lời và phụng dưỡng các ngài. Xin cho các ngài, ngay ở đời này tìm thấy niềm hạnh phúc được phục vụ Cha và yêu mến Cha. Và xin cho chúng con một ngày kia được sum họp với nhau trên Nước Trời. Amen [1] x. Ep 6,1-2; Is 49,15; Is 63,16; 64,7 Bài 20. Những ngày lễ của gia đình “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, Mỗi gia đình đều có những ngày lễ riêng, đánh dấu những biến cố vui, buồn của gia đình. Chẳng hạn như ngày giỗ của ông bà, cha mẹ, ngày kỷ niệm thành hôn của vợ chồng, ngày sinh nhật, ngày lễ bổn mạng của một người trong gia đình... Những ngày lễ của gia đình là dịp để mọi người trong gia đình quây quần bên nhau trong tình yêu thương hiệp nhất, vun xới thêm tình gia đình. Đầu năm, mỗi gia đình nên ghi các ngày lễ của gia đình mình vào cuốn lịch Công giáo để dễ nhớ. 1. Lễ Gia tiên Trong Cựu Ước, Thiên Chúa thường tự xưng là Thiên Chúa của Abraham, của Ixaác, của Giacop, nghĩa là Thiên Chúa các tổ phụ. Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của người sống.[1] Bên kia cái chết, các bậc tiền nhân đã thực sự “sống khôn thác thiêng” đều đang sống trong Thiên Chúa. Các tín hữu ở trần gian kết hợp với họ trong mầu nhiệm các thánh thông công. Do đó, khi bày tỏ lòng hiếu kính, nhớ đến gia tiên tổ phụ, người Công giáo không làm một sự thờ phượng nằm ngoài sự thờ phượng Thiên Chúa, nhưng là để nhờ đó mà thêm lòng biết ơn và kính mến Thiên Chúa là nguồn mọi tình phụ tử trên trời dưới đất[2]. Đàng khác, khi nhớ đến tổ tiên theo huyết thống, người Công giáo cũng nhớ đến các tổ phụ trong đức tin. Người Việt Nam thường có thói quen rất tốt: mỗi khi gia đình có việc buồn vui đều luôn tưởng nhớ gia tiên và biểu lộ tâm tình ấy bằng việc cúng lễ, hoặc đơn giản thắp một nén nhang trên bàn thờ. Người tín hữu Công giáo Việt Nam tiếp nhận truyền thống tốt đẹp ấy với một cái nhìn chính xác, phù hợp với đức tin Kitô giáo. Mỗi gia đình nên có một bàn thờ gia tiên đơn sơ. Ngày tết, ngày giỗ nên giữ một cây hương cháy suốt ngày. Tránh những chi tiết trái với đức tin và tránh tốn kém không hợp tình hợp lý. Về hình thức, cốt sao biểu lộ được tấm lòng và giúp con cháu trong nhà học được tâm tình biết ơn tổ tiên và biết ơn Thiên Chúa Tạo Hoá. Khi cúng lễ, cần nhắc cho mọi người trong nhà nhớ: đức tin Công giáo dạy ta biết rằng người quá cố không cần đến thức ăn vật chất, các lễ vật chỉ nhằm bày tỏ lòng biết ơn kính nhớ mà thôi. Lễ gia tiên thường do vị trưởng tộc hoặc người cha trong gia đình chủ lễ. Nếu vị này vắng mặt, thì vợ hoặc con trai hoặc con dâu trưởng chủ lễ. 2. Dọn tất niên Tết Nguyên đán là dịp sum họp gia đình, kính nhớ tổ tiên và thăm viếng nhau để gia tăng tình thân ái. Cần loại bỏ những chi tiết phong tục quá rườm rà, cũng như những gì đi ngược lại với Tin mừng, và phải lưu ý phát huy những gì tốt đẹp. Khởi đầu là việc dọn tất niên. Từ giữa tháng chạp là thời gian thuận tiện để mỗi gia đình tổng kết một năm. Cha mẹ và con cái sẽ cùng nhau: - Làm xong những việc cần thiết còn đọng lại. Những việc trên đây sẽ làm xong trước ngày ăn bữa tất niên (vào ngày cuối năm hoặc một ngày nào sớm hơn, tùy tiện). Bữa ăn này được coi như để kết toán mọi chuyện: còn gì phải xin lỗi nhau, hoặc góp ý xây dựng đều nói hết trong dịp này, để rồi ngày đầu năm sẽ không còn phải nhắc gì đến chuyện cũ, chỉ chúc tuổi nhau thật vui vẻ. Cũng nên nhân bữa ăn này mà trình bày chủ đề sống của năm tới và dự tính trước việc vui xuân của gia đình, thu xếp sao để trẻ em khỏi lây nhiễm thói xấu cờ bạc ngoài xã hội. 3. Tưởng nhớ gia tiên dịp Tết Nguyên Đán Dịp Tết Nguyên Đán, trong những gia đình theo đúng tinh thần Việt Nam, ẩn dưới những niềm vui rộn rã đầu xuân là cả một thực tại linh thiêng trầm mặc đầy ắp không gian: cõi hữu hình và cõi vô hình đan dệt vào nhau, ông bà tổ tiên đã khuất như thể đang có mặt giữa con cháu một cách thân thiết, gần gũi, linh thiêng và đầy an ủi. Có được bầu khí ấy là nhờ các nghi lễ rất nghiêm túc của phụng tự gia đình. Các nghi lễ này mở đầu với giờ “cúng đón” (đón ông bà về ăn tết với con cháu) vào ngày 29 hoặc 30 tết, và kết thúc với giờ “cúng đưa” (tiễn chân ông bà) vào ngày mùng 3 hay mùng 4 tết (có nhà cúng đưa từ chiều mùng 2). Người Công giáo biết rằng các linh hồn đã về với Thiên Chúa vẫn hiệp thông với các tín hữu ở trần gian thường xuyên, chứ không riêng mấy ngày tết, cho nên không có chuyện đón ông bà về ăn tết và tiễn ông bà đi. Tuy nhiên, thiết tưởng ngày nay cả nơi đại chúng người không có đạo, không mấy ai còn hiểu hai chữ đón đưa này theo nghĩa đen, nhưng hiểu theo một nghĩa tượng trưng sâu sắc, nhằm xác định một thái độ nội tâm và đánh dấu khoảng thời gian họ muốn dành để tưởng nhớ gia tiên một cách thật sâu đậm, khoảng thời gian họ muốn để cho tâm hồn lắng đọng trong niềm cảm mến biết ơn. Trong khoảng thời gian ấy, bàn thờ gia tiên lúc nào cũng có khói hương, mỗi ngày người ta cúng hai ba lần vào đúng giờ cả nhà quy định trước. Mỗi gia đình có một người trực ở nhà để giữ cho hương đèn được liên tục, và lo nấu thức ăn, đúng giờ thì bày lên bàn thờ, thành tâm cầu nguyện. Người trực đóng vai đại diện gia đình, luôn ở trong tâm tình cung kính trước sự hiện diện của anh linh tiên tổ, để bày tỏ niềm biết ơn và tưởng nhớ. Ngày nay, cả người không có đạo cũng không mấy ai còn nghĩ ông bà tổ tiên cần “ăn tết”, nhưng người ta thấy rằng sự túc trực để bày tỏ lòng thành là điều cần thiết. Đó là một tâm tình rất thiêng liêng cao quý mà bầu khí của các lễ nghi gia tiên đã đem lại. Khi đón nhận các truyền thống tốt đẹp của dân tộc, người Công giáo nhằm đạt được phần tinh hoa, chứ không vụ vào những hình thức rườm rà. Tuy vậy, trong mức độ vừa phải, hình thức vẫn cần thiết. Để phục hồi và phát huy được bầu khí linh thiêng thuận lợi cho tình cảm và hạnh phúc gia đình, rất cần giữ lấy những hình thức diễn tả tối thiểu và chính yếu. 4. Lễ giao thừa Tối cuối năm, gia đình đoàn tụ, giải trí chung với nhau, cùng thức đón giao thừa. Giây phút kết thúc năm cũ và bắt đầu năm mới là lúc thật ý nghĩa để ca tụng Chúa, Đấng làm chủ thời gian và lịch sử. Khí xuân mới cũng gợi cho ta nhớ đến công trình sáng tạo của Ngài. Chúng ta xin Chúa chúc lành cho một năm mới đang bắt đầu. Sau khi cầu nguyện, mọi người chúc tuổi nhau rồi đi ngủ. Lễ giao thừa không phải là lễ gia tiên. Lễ gia tiên đã được thực hiện vào lúc “tiên thừa”, tức là lúc đầu hôm đêm cuối năm. Tuần hương thắp lúc giao thừa là để kính thờ Đấng Tạo Hoá và cầu nguyện với Ngài. 5. Lễ Minh niên Gia đình sum họp buổi sáng đầu năm là điều rất quý giá. Thánh lễ ở nhà thờ xong, mọi người về nhà ngay. Các cháu mừng tuổi ông bà, con cái mừng tuổi cha mẹ, mọi người mừng tuổi nhau. 6. Lễ bổn mạng một người trong gia đình Trước ngày lễ, người có tên thánh bổn mạng nên dành vài giờ tĩnh tâm cầu nguyện. Ngày lễ, cả nhà đi dự lễ, rước lễ sốt sắng. Kinh tối, theo chương trình trong tuần (nên hỏi linh mục về lời nguyện ngày lễ, chép sẵn từ trước). Nhớ nhắc con thiêng liêng dọn mừng lễ bổn mạng. Hôm lễ, nên mời các con thiêng liêng dùng cơm. 7. Giáp năm ngày rửa tội Trước ngày lễ, người có lễ kỷ niệm nên dành vài giờ tĩnh tâm cầu nguyện. Ngày lễ, cả nhà đi dự lễ, rước lễ sốt sắng. Trong giờ Kinh tối, gia đình cùng hiệp ý dâng lời tạ ơn, đồng thời cũng nhắc nhớ nhau sống xứng đáng ơn gọi làm Kitô hữu. 8. Thôi nôi hoặc sinh nhật Đây là dịp vui của toàn gia đình. Những món quà nho nhỏ của mọi người vào dịp này là một cách bày tỏ sự quan tâm và yêu thương nhau. Nên tổ chức một bữa ăn để tạo thêm bầu khí yêu thương. Giờ kinh tối cũng là dịp để toàn thể gia đình cùng hiệp thông với nhau trong niềm vui này. 9. Giáp năm ngày cưới Mỗi lần phong thánh, Hội Thánh cũng ấn định ngày mừng lễ hằng năm, thường là vào ngày qua đời của vị thánh. Ngày 22-10-2001 vừa qua, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho đôi vợ chồng người Ý là Luy và Maria Beltrame Quattrocchi. Tuy nhiên, để ấn định ngày mừng lễ, ngài không chọn ngày qua đời của họ như thường lệ, mà lại chọn ngày kỷ niệm lễ thành hôn của họ: ngày 25-11-1905. Trước ngày kỷ niệm lễ thành hôn, nếu có điều kiện, vợ chồng nên tĩnh tâm vài giờ, nhớ lại tình thương Chúa và kiểm điểm đời sống để tiếp tục xây dựng hạnh phúc gia đình. Ngày kỷ niệm, vợ chồng, con cái cùng đi dự lễ. Ở nhà, trong bữa ăn kỷ niệm, nên nhắc đến niềm vui này. Những dịp khác trong năm có thể mang những hình thức đơn giản, nhưng hôm nay phải là đại lễ của gia đình. Nếu được, cũng nên mời vài đôi bạn thân thiết cùng dự bữa ăn và chia sẻ kinh nghiệm. Giờ kinh tối, nên dành ít phút để dâng lên Chúa tâm tình tạ ơn, xin Chúa chúc lành và củng cố mối giây yêu thương giữa hai vợ chồng và tất cả gia đình. 10. Ma chay 10.1. Trong thánh lễ an táng cũng như trong những dịp cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, Hội Thánh cử hành mầu nhiệm phục sinh, xác tín rằng những người đã tin vào Đức Kitô và đã chịu phép Rửa tội để nên chi thể Ngài, sẽ được cùng Ngài vượt qua sự chết mà đến sự sống. Vì thế, mọi lời dẫn giải, lời ca, lời kinh trong các dịp ấy phải diễn tả được niềm hy vọng vào đời sống vĩnh cửu. Trong tinh thần đức tin, thân nhân của người mới qua đời cũng cần tỏ ra can đảm, bình an, tránh khóc lóc ai oán. 10.2. Người Công giáo đón nhận tất cả những gì tốt đẹp trong truyền thống dân tộc về việc tôn kính ông bà tổ tiên cũng như về việc mai táng, nhưng dứt khoát loại bỏ những chi tiết không phù hợp với đức tin, như coi ngày giờ, coi phương hướng, rải giấy vàng bạc, vẽ bùa, đập chén bát khi động quan, vv... 10.3. Tang phục: Nên có một dấu hiệu nào đó để nói lên tâm tình đau buồn thương tiếc tự nhiên của ta, nhưng không nên để nó che mờ nỗi vui mừng lớn lao đích thực của người con vừa được gọi về nhà Cha và niềm hy vọng vào một ngày kia sẽ gặp lại người ấy trong hạnh phúc quê trời. Tránh những tang phục rườm rà gây cảm tưởng mình hoàn toàn mất mát, thất vọng ê chề và những gì không rõ ý nghĩa. 10.4. Mọi cách diễn tả trong tang lễ cũng như trong việc thờ kính tổ tiên phải có ý nghĩa rõ ràng chính xác, hợp với đức tin và tình yêu thương. Làm một hành vi, ta phải hiểu ý nghĩa của hành vi đó. Ví dụ, việc rảy nước thánh và vái kính thi hài phải được hiểu đúng: - Rảy nước thánh trên thi hài là để nhớ rằng nhờ nước rửa tội, người tín hữu đã được ghi tên vào số những người được sống đời đời. - Thắp nhang đèn, vái kính trước thi hài tín hữu là vì thân xác ấy đáng tôn trọng: lúc còn sống, thân xác ấy đã là đền thờ Chúa Thánh Thần, và giờ đây đang đợi chờ ngày sống lại. 10.5. Trong việc cầu nguyện cho người quá cố, Lời Chúa là phần quan trọng, nên chọn đoạn Kinh Thánh cho thích hợp. 10.6. Người hướng dẫn các giờ cầu nguyện nên làm phấn khởi lòng trông cậy của thân nhân người quá cố, cũng như hun đúc niềm tin của mọi người đang hiện diện, nhưng phải liệu sao để không làm phật lòng những người đang buồn phiền. 11. Lễ giỗ Việc cầu nguyện trong ngày giỗ vừa để cảm tạ Chúa đã giải thoát các bậc tổ tiên, đưa về hưởng nhan Chúa, vừa để cầu xin Chúa sớm giải thoát những người đang phải ở luyện ngục (thường đối với những người mới qua đời, ta hướng tới việc cầu hồn, còn đối với những người đã qua đời từ lâu, ta có thể tin vào lòng Chúa nhân từ mà dâng lời cảm tạ). Ngay cả những vị đã chết mà không chịu phép Rửa tội, ta vẫn tin rằng Thiên Chúa nhân từ và đầy quyền năng đã có cách cứu vớt họ trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô. Giờ kinh tối sẽ theo ngày trong tuần, với lời nguyện giỗ. Nếu là cầu hồn, thì theo mẫu canh thức cầu nguyện cho tín hữu đã qua đời. Cũng đừng quên rằng chúng ta có thể cầu nguyện với những bậc tổ tiên đang được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Nói đúng hơn, ta có thể xin họ cầu nguyện với Chúa cho ta. Khi còn sống, họ đã yêu thương cầu nguyện cho ta, thì khi đã về với Chúa, họ còn yêu thương ta hơn và lời cầu nguyện của họ còn hữu hiệu hơn. 4 GHI NHỚ : 1. H. Những ngày lễ của gia đình mang ý nghĩa gì? T. Những ngày lễ của gia đình là dịp để mọi người quây quần bên nhau trong tình yêu thương hiệp nhất, vun xới thêm tình nghĩa, duy trì những nét đẹp truyền thống của gia đình mình. 2. H. Đối với các dịp lễ của gia đình, ta nên tổ chức thế nào? T. Ta nên tổ chức đơn sơ, vừa phù hợp với nét đẹp của văn hoá dân tộc, vừa biểu lộ được đức tin Kitô giáo của mình. 5. GỢI Ý SUY NGHĨ : 1. Ngày lễ nào trong gia đình đã để lại trong anh chị dấu ấn sâu đậm nhất? 6. CẦU NGUYỆN : Lạy Chúa, Lạy Chúa, [1] x. Mt 22,32 “Sự sáng của các con cũng phải chiếu giải ra trước mặt thiên hạ, Giữa gia đình và xã hội có một mối liên hệ mật thiết. “Tương lai của nhân loại sẽ đến qua gia đình[1]“. Ngược lại, xã hội có trật tự yên ổn thì gia đình mới phát triển. Chính vì thế, gia đình và xã hội có bổn phận phải góp phần xây dựng, bảo vệ, củng cố và phát triển lẫn nhau. Riêng đối với người Kitô hữu, mối quan hệ giữa gia đình và xã hội còn sâu sắc hơn, bởi vì tính cách trần thế là nét riêng biệt và đặc thù của ơn gọi Kitô hữu giáo dân. “Người giáo dân sống giữa trần gian, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội. Đó là nơi Thiên Chúa mời gọi họ. Nhờ sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm, như men từ bên trong, họ thánh hoá thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình[2]“. 1. Gia đình là tế bào đầu tiên và sống động của xã hội Gia đình là tế bào căn bản của đời sống xã hội, là xã hội tự nhiên, nơi đó người nam và người nữ được mời gọi tận hiến cho nhau trong tình yêu và trong việc thông truyền sự sống. Quyền bính, sự ổn định và đời sống gắn bó trong gia đình là nền tảng cho tự do, an ninh và tình huynh đệ của xã hội. “Gia đình là cộng đoàn, nơi đó từ thời thơ ấu, con người được học biết tôn trọng những giá trị luân lý, tôn thờ Thiên Chúa và biết sử dụng tự do. Đời sống gia đình chuẩn bị cho đời sống xã hội[3]“. 2. Xã hội phục vụ gia đình Gia đình có tốt thì xã hội mới tốt. Tuy nhiên, ngày nay đời sống gia đình đang gặp phải nhiều bóng tối. Nề nếp gia phong bị suy giảm. Khuynh hướng hưởng thụï ích kỷ phát triển dẫn đến lối sống buông thả, từ đó làm gia tăng những vụ ly dị, phá thai, không còn ý thức về phẩm giá sự sống. Con số thanh thiếu niên rơi vào xì ke, ma tuý, mại dâm, sống lang thang ngoài đường phố tăng thêm nhiều... Chính vì thế, mọi người hữu trách và mọi người thiện chí đều phải quan tâm đến việc bảo vệ, củng cố và thăng tiến các giá trị đời sống gia đình. Đặc biệt, cần tôn trọng, trợ giúp và nhất là bảo đảm cho gia đình có được các quyền sau đây: - “Quyền tự do lập gia đình, quyền sinh con cái và giáo dục chúng theo những xác tín luân lý và tôn giáo của mình”. - “Quyền bảo toàn dây liên kết vững bền của hôn nhân và cơ chế gia đình”. - “Quyền tự do tuyên xưng đức tin và thông truyền đức tin, quyền giáo dục đức tin cho con cái bằng những phương tiện và cơ chế cần thiết”. - “Quyền tư hữu, tự do làm việc, có việc làm, có nhà ở, tự do di cư”. - “Quyền được chăm sóc y tế trợ cấp tuổi già, phụ cấp gia đình, tùy theo cơ chế của các quốc gia”. - “Quyền được bảo vệ an ninh và cuộc sống lành mạnh, tránh các nguy cơ như: xì ke ma túy, dâm ô đồi trụy, nghiện rượu...” - “Quyền tự do liên kết với các gia đình khác để lập hội đoàn và như thế, được đại diện bên cạnh công quyền”[4]. Trên bình diện giáo xứ cũng như giáo phận, trong thư mục vụ năm 2002, Hội Đồng Giám mục VN đề nghị: - Các Giáo phận nên có Văn phòng Mục vụ về Hôn nhân và Gia đình. - Các Giáo xứ nên tổ chức các lớp học hỏi về hôn nhân và gia đình. Để các lớp học hỏi về hôn nhân và gia đình có được kết quả tốt đẹp, cần soạn thảo một chương trình giáo lý hôn nhân, đào tạo một đội ngũ giáo lý viên vững vàng, kêu gọi sự cộng tác của giáo dân có khả năng chuyên môn và có kinh nghiệm trong các lãnh vực: tâm lý, xã hội, pháp luật, quản trị, y khoa. - Ban Mục vụ giáo xứ có một bộ phận chuyên trách về gia đình với sự cộng tác của các Hội đoàn quan tâm đến tình trạng các gia đình trong khu xóm, đặc biệt các gia đình nghèo khổ, bất thuận và các gia đình di dân, để kịp thời giúp đỡ. - Những ngày lễ gia đình, ngày kỷ niệm thành hôn, những buổi giao lưu giữa các gia đình sẽ rất ích lợi nếu được chuẩn bị chu đáo với tinh thần cầu nguyện và học hỏi. 3. Gia đình góp phần xây dựng và phát triển xã hội - Tham gia vào các việc chung, các công tác xã hội. “Đối với người tín hữu, xao lãng bổn phận trần thế tức là xao lãng bổn phận đối với tha nhân, và hơn nữa đối với chính Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời của mình bị đe doạ[5]“. - Giáo dục con cái nên người. Gia đình là chiếc nôi, là trường học đầu tiên, nơi con cái lớn lên cả về thể xác lẫn tinh thần, nơi con cái không chỉ được dạy dỗ bằng lời nói mà còn bằng gương sáng. Bởi vậy, gia đình còn được gọi là trường đào tạo nhân đức. Cần dạy con cái về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, đặc biệt là các đức tính thành thật, công bằng, tôn trọng sự sống, tôn trọng phẩm giá con người, yêu thương người nghèo, người già cả, neo đơn, ốm đau, tật nguyền...[6] - Góp phần xây dựng một nền văn minh tình thương. Đó là một xã hội công bằng và yêu thương. “Hội Thánh mong muốn người Công giáo đem tinh thần Kitô giáo thấm nhuần tư tưởng, phong tục, luật lệ và cơ cấu của cộng đoàn nơi họ đang sống.... qua đức tin và đức ái của mình, bằng đời sống lương thiện như ánh sáng trần gian, tìm cách cộng tác với mọi người, đối thoại với họ, để phổ biến những gì là chân thật, công bằng[7]“. “Trong các việc tông đồ của gia đình, cần phải kể các việc như sau: nhận nuôi trẻ bị bỏ rơi, cho khách trọ nhờ, cộng tác với học đường, giúp thanh thiếu niên, đỡ đầu các đôi hôn nhân, giúp dạy giáo lý, nâng đỡ những gia đình gặp khó khăn về vật chất và tinh thần, lo cho người già những điều cần thiết và tiện nghi chính đáng[8]“. 4 GHI NHỚ : 1. H. Gia đình nắm giữ vai trò nào đối với xã hội? T. Gia đình chính là tế bào đầu tiên và sống động của xã hội. 2. H. Xã hội có trách nhiệm thế nào đối với gia đình? T. Xã hội cần phải quan tâm đến việc bảo vệ, củng cố và thăng tiến các giá trị đời sống gia đình. 3. H. Gia đình góp phần xây dựng xã hội bằng cách nào? T. Gia đình góp phần xây dựng xã hội bằng cách tuân giữ luật pháp quốc gia, cộng tác trong những công việc chung để phát triển đất nước, giáo dục con cái trở nên người hữu ích và góp phần xây dựng nền văn minh tình thương. 5. GỢI Ý SUY NGHĨ : 1. Trong Tông huấn về Gia đình, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nói: “Tương lai của nhân loại sẽ đến qua gia đình”. Anh chị nghĩ sao về điều này? Gia đình của anh chị có trách nhiệm gì đối với tương lai của đất nước và của gia đình nhân loại? 2. Thư mục vụ năm 2002 của HĐGM VN, trong phần kết luận đã viết như sau: “Một gia đình Kitô hữu thực sự tốt đẹp không thể chỉ đóng kín trong những sinh hoạt riêng tư, nhưng cần mở rộng mối quan hệ với những gia đình chung quanh, để kính trọng yêu thương, trao đổi học hỏi và quan tâm giúp đỡ, góp phần phát triển nền văn minh tình thương”. Gia đình của anh chị sẽ góp phần xây dựng nền văn minh tình thương như thế nào? 6. CẦU NGUYỆN : Lạy Thánh Gia Nadarét là gương mẫu của đời sống thánh thiện, công bình và yêu thương, xin cho gia đình chúng con trở nên nơi đào tạo nhân đức, trong hiền hoà, phục vụ và cầu nguyện. Xin cho chúng con xây dựng gia đình thành niềm an ủi cho cuộc đời đầy thử thách. Xin cho chúng con biết làm cho mọi người trong gia đình đều được thăng tiến để góp phần vào việc phát triển xã hội, và cộng tác trong việc xây dựng Hội Thánh. Amen [1] GĐ 86 Lời kết. Đón chờ Tiệc Cưới Chiên Con Khoá học của chúng ta đến lúc kết thúc. Đang khi anh chị bận rộn chuẩn bị cho lễ cưới của mình, xin mời anh chị cũng hướng lòng tới một lễ cưới khác: Tiệc cưới đời đời trong Nước Thiên Chúa. 1. Thuỷ và Chung Anh chị cam kết yêu nhau chung thuỷ, nghĩa là yêu nhau từ phút đầu (thuỷ) đến phút cuối (chung), mãi đến lúc kết thúc (chung) vẫn còn yêu như lúc khởi đầu (thuỷ). Lễ cưới của anh chị là một khởi đầu, và kết thúc phải chăng là lúc anh chị nhắm mắt xuôi tay? Đã có một khởi thuỷ của mọi khởi thuỷ, đó là Thiên Chúa và Tình yêu của Ngài, và có một chung cuộc của mọi chung cuộc, đó cũng chính là Thiên Chúa và Tình yêu của Ngài. Vì thế, giữa những lời cầu chúc của mọi người, có một lời nguyện chúc của Hội Thánh, nguyện chúc anh chị được hạnh phúc cho đến cõi đời đời, khi anh chị được tham dự tiệc cưới của Chiên Con, mừng hôn lễ đời đời giữa Đức Kitô và Hội Thánh (Kh 19,8). Đó mới thực sự là chung cuộc, để anh chị được hạnh phúc bên nhau cùng với con cháu mình và với mọi người cho đến đời đời trong tình yêu vĩnh hằng của Thiên Chúa. Đó cũng là một ý nghĩa thâm thuý tuyệt vời khi tình yêu của anh chị được Đức Kitô nâng lên hàng bí tích: Tình yêu ấy là dấu chỉ giúp anh chị nhận ra và cũng là phương tiện giúp anh chị đạt đến tình yêu đời đời của Đức Kitô. Như thế hành trình hạnh phúc của anh chị là hành trình của một cuộc tình nhỏ trong một cuộc tình lớn. 2. Cuộc tình nhỏ trong cuộc tình lớn “Các con thân mến, chúng ta phải yêu thương nhau, vì tình yêu bởi Thiên Chúa mà ra. Vì lẽ hễ ai thương yêu, thì đã sinh ra bởi Thiên Chúa, và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Điều này biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là Thiên Chúa chúng ta đã sai Con Một Người đến trong thếâ gian, để nhờ Ngài mà chúng ta được sống. Tình yêu ấy là thế này: Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước, và đã sai Con Một Người đến hy sinh, đền thay vì tội lỗi chúng ta” (1Ga 4,7-10). “Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau. Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau” (Ga 13,34-35) Đó chính là hướng đi và chương trình Thiên Chúa dành cho anh chị. Khi thực hiện, anh chị sẽ nghiệm ra đâu là bến bờ cho sự thuỷ chung của mình. Bến bờ ấy là tình yêu của Đấng cùng một lúc vừa là Thuỷ vừa là Chung: “Ta là Alpha và là Ômêga, là Khởi nguyên và là Cùng tận!” (Kh 21,6). 3. Sum họp trong đại gia đình Thiên Chúa Đưa nhau đến trước bàn thờ gia tiên, anh chị nguyện sống thế nào để chết rồi khỏi thẹn với Ông Bà. Gặp lại Ông Bà nhưng không phải trong một âm phủ tối tăm mà trong ánh sáng hạnh phúc. Cũng không phải chỉ gặp lại năm thế hệ tổ tiên có bài vị trên bàn thờ mà là mọi thế hệ tổ tiên, lên đến con người đầu tiên của lịch sử. Chắc hẳn cũng không thiếu những vị đã khuất mà không cập được bến bờ ánh sáng nhưng bị chìm đắm trong khổ đau đời đời. Tuy nhiên, ta có thể vững tin rằng tất cả những ai đã theo lương tâm mà sống ngay lành và sau khi vấp ngã lại biết chỗi dậy sống theo lương tâm thì đều có một chỗ đứng trong Nhà của Thiên Chúa. Ở đó, chúng ta nghiệm ra không những bốn bể mà mọi thế hệ trong lịch sử đều là anh em, con một Cha chung trên trời. “Sau đó, tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: “Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Đấng ngự trên ngai vàng và Con Chiên” (Kh 7,9-10) Trong gia đình của Thiên Chúa, mọi thành viên đều có quan hệ thân thương với nhau, nhờ gắn bó với Ba Ngôi Thiên Chúa. Chính Ngài là nguồn mạch và mẫu mực của mọi tình yêu. Hướng về Thiên Chúa và gắn bó với Ngài, ta được mời gọi yêu thương nhau và yêu thương mọi người như Ba Ngôi yêu thương nhau và yêu thương chúng ta. 4. Vinh quang vẫy gọi Một hình ảnh khác: Hội Thánh thời cuối cùng được trình bày như một phụ nữ đang quằn quại sắp sinh con “Lại một điềm lạ khác xuất hiện trên trời: một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao: Bà đang mang thai kêu la chuyển bụng, và đau đớn sinh con”(Kh 12,1-2). Chính lúc khốn khổ như thế, bà lại bị kẻ thù lăm le tấn công, thế nhưng Thiên Chúa |